HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN A
2V 4,8-11.14-16a; Rm 6,3-4.8-11; Mt
10,37-42
ĐIỀU KIỆN
ĐỂ TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ CỦA CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 10,37-42
(37) “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy,
thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn
Thầy, thì không xứng với Thầy. (38) Ai không vác thập
giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. (39) Ai
giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai
liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm
thấy được. (40) Ai đón tiếp anh em là đón
tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp
Đấng đã sai Thầy. (41) Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho
bậc ngôn sứ : Ai đón tiếp một người công
chính, vì người ấy
là người công
chính, thì sẽ được
lãnh phần thưởng
dành cho bậc công
chính. (42) Và ai cho một
trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù
chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì
Thầy bảo thật anh
em : Người đó sẽ không mất
phần thưởng đâu”.
2. Ý CHÍNH: Người môn đệ phải đặt tình yêu
Chúa Giê-su lên trên mọi tương
quan tình cảm gia
đình ruột thịt.
Những ai sẵn sàng đón nhận gian khổ thập giá để đi theo và cùng chết với Đức Giê-su
thì sẽ tìm lại được sự sống
đời đời cho mình sau này. Đức Giê-su cũng tự đồng hóa Người với các vị thừa sai sau này và hứa ban cho những ai sẵn
sàng đón tiếp các
ngài, sẽ được
Thiên Chúa ban thưởng
bội hậu ở trên trời.
3.CHÚ THÍCH:
- C 37: + Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì
không xứng với Thầy…
: Ở đây
Đức Giê-su tỏ ý “ghen tương” giống như sự ghen yêu
của Đức Chúa
đối với dân
Ít-ra-en thời Cựu Ước
(x. Đnl 29,17-19 ; 32,16-21). Đức Giê-su không chấp nhận bất cứ tình
yêu nào cạnh tranh với tình
yêu dành riêng cho Người.
Kẻ nào muốn theo
làm môn đệ Đức
Giê-su mà còn quá quyến
luyến với tình cảm
gia đình, thì không xứng
đáng với tình
yêu của Người. Kẻ
nào không nhìn nhận sự
tối thượng của Người cũng không
thể làm môn đệ của Người được.
Sở dĩ Người đòi hỏi trung thành tuyệt đối như vậy, vì
Người chính là
Thiên Chúa làm người,
đến để chịu chết đền tội
thay cho loài người.
HỎI : Với
đòi hỏi như
thế, phải chăng đi theo Chúa là phải hoàn toàn từ bỏ mọi liên hệ gia đình ruột thịt, có thể bị người đời
kết tội là bất
hiếu ?
ĐÁP : Thực ra không
phải như vậy. Vì
chính Đức Giê-su
là một người con hiếu
thảo : Người vâng lời cha mẹ trong suốt thời gian ẩn dật tại
Na-da-rét (x. Lc 2,51). Dù “giờ” chưa tới, nhưng Người sẵn sàng
nghe lời cầu bầu của
Đức Mẹ, để làm phép lạ đầu tiên giúp đỡ đôi tân hôn là hóa nước thành rượu ngon (x. Ga 2,4.5-8). Trước
khi tắt thở trên cây thập giá, Người
trối Mẹ Người làm Mẹ của môn đệ Gio-an, để ông đem
Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Người
(x. Ga 19,25-27). Người dạy người ta về sự
thực hành cách cụ
thể giới răn “Phải thảo kính cha mẹ”, trái với lời dạy lỗi bổn
phận hiếu thảo của các luật sĩ (x. Mc 7,10-13). Nhưng
đối với Đức Giê-su, sự vâng lời cha mẹ phải được
đặt sau bổn phận hiếu thảo với Thiên
Chúa (x. Lc 2,49). Người
nhận những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa chính là Mẹ và anh em của Người (x. Mc 3,33-35). Trong câu
này, Đức Giê-su chỉ muốn nói rằng : khi buộc phải chọn
một trong hai tình yêu, một là dành cho cha mẹ và hai là dành cho Đức Giê-su, thì môn đệ phải đặt tình yêu trung thành với Chúa trên tình yêu dành
cho cha mẹ.
- C 38: + Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy : Lúc đầu có lẽ các môn đệ đi theo Đức Giê-su
do muốn được lợi
lộc vật chất (x. Mt 19,27-30), được địa
vị cao khi Người lên làm vua (x. Mt 18,1-4). Nhưng
Người không chiều theo ý họ, mà đòi họ phải đi con đường
hẹp, leo dốc và đầy gai chông, ít người chịu theo (x. Mt 7,13-14). Đó là đường “từ bỏ mình,
vác thập gia mình hàng
ngày mà theo chân Người”
(x. Mt 16,24).
- C 39: + Ai giữ lấy mạng sống mình,
thì sẽ mất… : Giữa hai sự sống tự
nhiên và siêu nhiên, thì môn đồ phải chọn sự sống siêu nhiên. Nếu họ chỉ lo tìm
sự sống thân xác,
đến nỗi từ chối
Chúa để khỏi
bị giết chết, thì họ sẽ bị mất sự sống siêu nhiên
đời sau. Ngược
lại, nếu họ bằng lòng chịu chết vì đức tin, thì sẽ được Chúa ban lại sự sống siêu
nhiên sau này.
- C 40: + Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy…: Ở đây Đức Giê-su áp dụng một nguyên tắc thông thường về ngoại giao là : “Kẻ được sai đi
đồng hóa với
người đã sai mình”. Đón tiếp môn đệ là đón tiếp Đức Giê-su, cũng
là đón tiếp chính
Thiên Chúa là Đấng đã
sai Người. Sự
đón tiếp ở
đây là phải sẵn
sàng đón nhận Tin
Mừng do các tông đồ thừa sai rao giảng.
- C 41: + Ai đón tiếp một ngôn sứ… một người công
chính : Có người nghĩ
rằng : Ngôn sứ và
công chính đồng nghĩa
với tông đồ,
nên ai tiếp đón
các tông đồ với
danh nghĩa là ngôn sứ
và người công
chính, thì sẽ được
phần thưởng của các ngài. Nhưng một số các nhà chú giải hiện nay lại cho rằng
: Thời Giáo hội sơ
khai, chức vụ ngôn sứ khác với chức
vụ tông đồ,
còn người công
chính thì không phải chức
vụ, nhưng là người có lối sống
công bình và ngay chính, được cộng đoàn kính trọng, như ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a là người công chính (x. Mt 1,19), ông
Giu-se hay Ba-sáp-ba, biệt
danh Rô-ma là Gút-tô, nghĩa là công chính (x. Cv 1,23). + Thì sẽ được lãnh
phần thưởng
dành cho bậc ngôn
sứ… cho bậc công
chính : Đức Giê-su
áp dụng nguyên tắc : “Người được
sai đi đồng hóa với Đấng sai mình”, để nói rằng : kẻ đón tiếp các ngôn sứ và người công chính cũng sẽ được phần thưởng
giống như phần thưởng mà các bậc ngôn sứ và người công chính sẽ được, là được sự sống đời
đời.
- C 42: + Ai cho một trong những kẻ bé
nhỏ này… : Kẻ bé nhỏ đây ám chỉ các môn đệ của Đức Giê-su là
tông đồ thừa sai. +
Người đó sẽ không mất
phần thưởng đâu : Đức Giê-su hứa sẽ ban thưởng Nước
Trời cho những ai thành tâm cộng tác vào sứ
mệnh truyền giáo của các môn đệ,
thì cũng sẽ được
Chúa ban thưởng giống
như các môn đệi
sẽ được hưởng ở đời sau.
II. SỐNG LỜI CHÚA :
1. LỜI CHÚA: Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy (Mt 10,38).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CẬU
ĐÃ LÀM ĐƯỢC
GÌ CHO CHÚA GIÊ-SU CHƯA?
Một
buổi tối, khi vừa từ Ma-rốc trở về, SÁC ĐỜ PHU-CÔ (Charles de Foucauld) đã
hãnh diện kể cho mọi người thân trong gia đình nghe về
những cuộc thám hiểm kỳ thú của anh ở Phi Châu. Ai cũng thích thú lắng
nghe, nhưng người chăm chú theo dõi câu chuyện hơn
cả là cô cháu
gái chưa đầy mười tuổi của anh.
Khi
anh vừa dứt lời thì cô bé đã lên tiếng
nói:
- Thưa
cậu, cháu thấy
cậu đã làm
được nhiều việc to lớn. Vậy cậu
đã làm được
gì cho Chúa Giê-su chưa?
Câu hỏi
ấy như một luồng điện giựt, khiến
anh như bị bất động. Từ bao lâu nay, chưa có lời
nói của
ai mà khiến
anh phải suy nghĩ nhiều như thế: “Cậu
đã làm
được gì cho Chúa Giê-su chưa?”. Charles de Foucauld nghĩ lại
quá khứ
của mình thì chỉ
thấy một con số không to tướng. Anh đã phí phạm bao
nhiêu thời
giờ tuổi thanh xuân cho những cuộc ăn chơi truỵ lạc
và tìm kiếm
danh vọng phù
phiếm. Mắt anh bỗng mở ra để thấy
được sự nghèo nàn về tâm linh của mình. Ngày hôm sau, anh tìm đến
xưng tội với một vị linh mục. Sau đó anh đã từ
bỏ tất cả, xin vào một dòng khổ tu. Rồi
ít lâu sau, anh lại
đến ở Na-gia-rét quê hương Chúa Giê-su để dâng hiến trọn
đời còn lại
cho Người.
Một
ngày nọ,
giữa lúc
đang đắm mình trong cầu nguyện, anh bỗng
nghe từ căn nhà bên cạnh có tiếng rên của một
người Hồi giáo. Nhớ đến gương bác ái của Chúa Giê-su, anh tự
hỏi, anh có thể
giam mình cầu
nguyện giữa lúc có những người anh em đang rên rỉ trong
đau thương thất vọng được
chăng? Thế là
anh quyết định đến sống giữa
họ, trở thành
người anh em của họ, nhất là của những
người cô
đơn, nghèo hèn nhất.
Những
năm cuối đời, Charles de Foucauld đã đến sống
giữa sa mạc Sa-ha-ra bên Phi châu, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống
với những người cùng khổ. Và anh đã chia sẻ
tới giọt máu
cuối cùng khi
vào đầu tháng 12 năm 1916, anh đã bị phát súng oan nghiệt
của kẻ sát
nhân bắn gục đang lúc anh cầu nguyện.
Ngày nay, các Tiểu
đệ và Tiểu
muội của Chúa
Giê-su tiếp tục sống theo lý tưởng của
anh. Các anh chị
này tình nguyện
đến sống giữa những người nghèo khổ nhất
trong xã hội.
Tất cả cuộc sống và sự hiện diện âm thầm của
họ là muốn
làm điều
gì tốt
đẹp cho Chúa
noi gương Charles de Foucauld.
2) THEO CHÚA LÀ CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ THẬP
GIÁ GIỮA ĐỜI
THƯỜNG:
Có một thiếu nữ kia trẻ đẹp và là con
một gia đình quý tộc ở Ái Nhĩ Lan.
Tuy sống trong cảnh giàu
sang, nhưng cô lại muốn
sống đời thánh hiến cho Chúa. Khi tới
tuổi trưởng thành, cô từ chối khi các chàng trai quý tộc đến dạm hỏi, và
được cha mẹ
cho phép, cô tìm đến
một đan viện có lối sống nhiệm nhặt khắc khổ để
xin được dâng mình cho Chúa. Mẹ bề trên thấy cô vừa trẻ đẹp, lại vừa
là con nhà quyền quý
giàu có, nên chưa dám nhận
ngay. Bà muốn thử
thách ơn gọi của
cô nên đã cố ý
trình bày những luật lệ
khắt khe của đan viện về nhiệm vụ cầu
nguyện và lao động
nhiều giờ mỗi ngày. Nghe xong, cô gái giữ im lặng như suy nghĩ. Một
lát sau, bà bề trên
hỏi tiếp : “Bây giờ con còn muốn dâng mình cho Chúa nữa thôi ?”. Cô đáp : “Thưa
mẹ, con chỉ còn một thắc mắc này
là : Không biết trong tu viện
có nhiều cây
thánh giá không ?”. Mẹ bề
trên trả lời : “Con đừng
lo. Khắp nơi trong nhà, không chỗ nào là không có thánh giá cả”. Bấy giờ cô
gái tươi nét mặt và
nói : “Thế thì thưa
mẹ, con sẵn sàng
xin vào tu viện, vì con
chắc sẽ không gặp gì khó khăn cả. Bởi vì theo con nghĩ
: Nếu mọi nơi mọi
lúc con đều nhìn
thấy thánh giá Chúa,
đều thấy Người
đang cùng chịu
đau khổ với con, thì con hy vọng có thể chịu đựng được
mọi đau khổ”.
3) KHÔNG ĐÓN TIẾP THA NHÂN LÀ TỪ CHỐI CHÚA GIÊ-SU:
Tiểu bang Min-ne-so-ta ở phía trung bắc nước Mỹ, giáp với Ca-na-da, vào mùa
đông thường có
những trận bão
tuyết và nhiệt độ tụt xuống
-30 hay -40 độ âm Farenheit. Vào một đêm bão tuyết, chiếc xe hơi của người
phụ nữ bị chết máy trên đường tới Ro-ches-ter. Chị
biết rằng sẽ bị chết cóng nếu cứ ngồi lại ở
trong xe. Tuy là vùng miền
quê, nhưng trên trục
lộ chính, cũng có một số nhà dọc
theo đường lộ. Chị đã đến gõ cửa lần lượt hơn một
chục căn nhà, nhưng chẳng có ai chịu
ra mở cửa. Sau cùng, có một người lái xe ngang qua thấy chị nằm gục bên
vệ đường bèn
xuống xe đưa chị
vào nhà thương cấp
cứu. Chị đã được cứu sống, nhưng tất cả các
ngón tay, ngón chân và một bàn
chân đã bị hoại tử
vì chịu giá lạnh trong một thời gian
quá lâu.
Có điều đáng nói là các căn nhà
chị đến gõ cửa đêm hôm ấy, mọi người
đều ở trong nhà và đều nghe có tiếng gõ cửa. Mọi người đều
là các tín hữu sống
tại vùng quê hiền
hòa, nhưng không một
ai chịu ra mở cửa, vì sợ có thể bị
kẻ cướp trấn lột !
4) CHIA SẺ GIÚP ĐỠ NGƯỜI NGHÈO LÀ PHỤC VỤ CHÍNH CHÚA
GIÊ-SU:
MÁC-TANH THÀNH TUA (Martin de Tour) là một mẫu gương về
đức bác ái cụ
thể. Bấy giờ Mác-tanh
là người đầu
tiên được Hội
Thánh tôn kính như một
vị thánh mà không do chịu tử vì đạo. Ngài sinh ra tại
Pháp vào lúc cuộc bách
hại đạo sắp
chấm dứt. Trước đó chưa có người nào được các tín hữu tôn kính như một vị thánh giống như ngài. Sở dĩ Mác-tanh được tôn kính như một vị thánh vì đã
sống theo lời Chúa
dạy: yêu thương
tha nhân là yêu chính Chúa Giê-su.
Trong lúc Mác-tanh đang học giáo lý dự tòng thì ngài đã ở trong quân đội. Vào một đêm đông giá rét, khi
Mác-tanh đang ngồi trên
lưng ngựa đi tuần
tra thì gặp một
người ăn xin nghèo khổ đang đi trên đường. Ông ta bị rét run vì quần áo ông đang mặc chỉ là một mớ giẻ rách. Mác-tanh
liền thương cảm
cởi chiếc áo choàng bằng dạ đang mặc, rút gươm cắt thành hai mảnh và đưa một mảnh cho người ăn
xin nghèo khổ kia. Sau
đó, trong giấc ngủ,
Mác-tanh đã nằm mơ
thấy Chúa Giê-su trên cây thập giá đang khoác mảnh áo mà ông mới
cắt cho người ăn xin.
Mác-tanh nghe Người phán: “Hỡi
Mác-tanh, tuy đang học
giáo lý, mà con đã cho Ta chiếc áo này”.
3. SUY NIỆM:
1) ĐÓN TIẾP THA NHÂN LÀ ĐÓN TIẾP CHÍNH ĐỨC GIÊ-SU.
- LÒNG HIẾU KHÁCH : Trong một xóm đạo nọ, vào buổi sáng khi ánh mặt trời vừa ló rạng, cánh cửa mọi nhà trong xóm đều được mở ra
đón ánh nắng ban
mai. Rồi từ đầu xóm, một gã hành khất đeo bị và tay chống gậy xuất hiện.
Từ trong nhà nhìn qua cửa sổ, người ta đã phát hiện ra gã. Thế là từng nhà dọc
theo xóm, các cửa ra vào
đều được
đóng lại, người
ta cũng không quên kéo rèm che các cửa sổ. Bấy giờ gã hành khất đến từng nhà gõ cửa, nhưng không thấy ai ra mở. Cảm thấy
nhục nhã buồn tủi,
gã lặng lẽ
đi ra khỏi xóm. Khi gã vừa khuất dạng, các rèm cửa lại được kéo
lên, mọi cửa nhà
lại được mở
toang để đón nhận nắng ấm tràn vào trong nhà. Mọi người trong xóm đều vui vẻ như vừa
thoát khỏi sự quấy
rầy của người khách không mời mà đến.
- CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ? : Đức Giê-su dạy chúng ta hãy ân cần tiếp đón tha nhân. Tùy
theo thái độ của chúng
ta mà tha nhân sẽ trở thành
niềm vui mang lại hạnh
phúc hay trở nên
nỗi bất hạnh của
chúng ta : các chủ quán
ở Bê-lem xưa
đã từ chối đôi
vợ chồng nhà quê
nghèo khó là ông Giu-se và bà Ma-ri-a, nhưng họ lại không ngờ mình đã từ chối chính Đấng Thiên Sai trong đêm
giáng sinh (x. Lc 2,7); Hai người thu thuế trong Tin Mừng là Mát-thêu và Da-kêu
đã mở rộng cửa
nhà đón tiếp
Đức Giê-su và đã nhận được ơn cứu độ (x. Mt 9,10 ;
Lc 19,5-10); Gia đình Bê-ta-ni-a đón tiếp Đức Giê-su và đã
được Người
dạy cho biết điều gì cần thiết nhất (x. Lc
10,39-42) ; Hai môn đệ làng Em-mau đã mời vị khách bộ hành vào tạm
trú trong nhà, nên đã nhận ra Chúa Giê-su phục sinh khi Người bẻ bánh (x. Lc 24,29-31).
Ngày nay Đức Giê-su
vẫn đang hiện thân
trong những người
đau khổ nghèo đói. Người đang đứng ngoài cửa nhà chúng ta và gõ. Ai mở cửa đón Người, thì Người sẽ vào trong nhà
linh hồn của họ và
ngồi dùng bữa tối thân tình với họ.
2) BIỂU LỘ TÌNH YÊU
ĐỐI VỚI ĐỨC
GIÊ-SU THẾ NÀO
?:
- BẰNG CÁCH VÁC CÂY THẬP GIÁ ĐI KHẮP THẾ GIAN:
Từ lễ Giáng Sinh năm 1969, mục sư ÁC-THƠ BƠ-LÉT-SÍT
(Arthur Blessit) đã khởi
đầu một cuộc hành trình đi bộ vòng quanh thế giới. Trên vai vác một cây thập giá dài 3,6m, ngang 1,8m nặng 18 ki-lô. Sau 26 năm
vất vả, ông
đã lập được
một kỷ lục thế giới về đi bộ,
khi vượt qua một quãng đường dài tới hơn 50 ngàn cây số, băng qua nhiều quốc
gia. Sau này ông đã thuật
lại chuyến đi ấy như sau : “Tôi đã đi qua nhiều sa mạc và rừng già, đã từng bị dã thú như
voi, rắn, cá sấu tấn công. Tôi bị bắt giam 21 lần vì
bị nghi là làm gián
điệp và có lần suýt bị dân da đỏ hành hình…” Động lực thúc đẩy ông làm được việc phi thường ấy
là tình yêu mến Chúa
Giê-su. Ông muốn mang thập
giá của Chúa
đến mọi nơi trên
thế giới, theo lệnh
Người truyền : “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần”
(Mt 28,20).
- BẰNG SỰ BỎ MÌNH VÁC THẬP GIÁ MÌNH HẰNG NGÀY MÀ THEO CHÚA:
Đức Giê-su mời mọi người hãy vác
thập giá mình hằng ngày mà theo chân Người (x. Mt 16,24). Đường
thập giá là con đường chính Đức
Giê-su đã đi : Là con đường khó nghèo khiêm hạ ở Bê-lem, lao động vất vả ở
Na-da-rét ; Là con đường rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ cứu nhân độ thế từ miền Ga-li-lê
đến thủ đô
Giê-ru-sa-lem ; Là đường lo buồn sầu não trong vườn Cây Dầu, bị xét xử bất công, bị đánh đòn, bị đội mão gai, phải vác cây thập giá lên đồi Can-vê, rồi chịu đóng đinh và
chết nhục nhã như
một tên tội đồ đại gian ác.
Nhưng con đường
đó lại chính
là đường vào
trong vinh quang phục sinh, như
Đức Giê-su đã ba lần tiên báo với
môn đệ (x. Mt
16,21; 17,22-23; 20,18-19).
Các tín hữu chúng ta cũng được Đức Giê-su mời gọi đi con đường
thập giá của Người.
Thập giá mà chúng ta vác đây không phải là cây gỗ khổ hình, nhưng là những gánh nặng của bổn phận đối
với gia đình xã hội
và Giáo hội ; Là
đòi hỏi phải từ
bỏ của cải vật chất, quyền hành ;
Là những con người
mà chúng ta không ưa, mà vẫn phải sống chung trong một
mái nhà, chỗ làm
việc… Đức Giê-su
đã nên giống chúng
ta khi Người lo buồn
sầu não trước
Giờ Tử Nạn, nhưng đã sẵn sàng chấp nhận con đường “qua
đau khổ vào trong vinh quang” theo thánh ý Chúa Cha (Mt
26,39). Cũng vậy, chỉ
khi thực sự yêu mến Chúa Giê-su thì ta mới dám hy sinh quên mình, dấn thân theo Chúa trên con đường thập giá, và mới dám hiến mạng sống mình vì lòng
yêu mến tha nhân.
- BẰNG LỐI SỐNG YÊU THƯƠNG
CẢM THÔNG CHIA SẺ VÀ PHỤC VỤ:
Đức Giê-su đòi những ai muốn theo làm môn đệ Người phải dành
trọn tình yêu cho Người : “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai hay
con gái mình hơn Thầy, thì
không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37). Từ
ngày Đức Giê-su
về trời đến
nay, có biết bao thừa
sai tông đồ đã
dám sống đến cùng
tình yêu như Đức Giê-su
đòi hỏi ấy. Truyền
giáo không những là
rao giảng Lời Chúa
cho tha nhân, nhưng còn là “Bỏ
mình và vác thập giá
mình hằng ngày mà
đi theo Chúa”; Là tin yêu Chúa và thông truyền đức tin và lòng mến Chúa cho người khác. Ước gì mỗi tín hữu chúng ta yêu mến Đức Giê-su trên hết mọi người, mọi
vật, chấp nhận loại bỏ « cái
tôi » ích kỷ hẹp hòi,
để sống chan hòa
yêu thương, chia sẻ
và khiêm tốn phục
vụ tha nhân hầu làm
chứng cho Chúa như
Lời Người dạy:
“Bấy
giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp
các miền
Giu-đê, Sa-ma-ri
và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1,8).
4. THẢO LUẬN: Theo kinh Cải Tội
Bảy Mối Có Bảy
Đức, muốn chừa bỏ một thói hư như:
kiêu ngạo, hà tiện, mê dâm dục, hờn giận, mê ăn
uống, ganh ghét, làm biếng… Ta cần tập các
nhân đức đối lập
nào và tập như thế
nào ?
5. LỜI CẦU :
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin dạy con biết yêu mến Chúa cho xứng
đáng : biết cho
đi mà không cần tính
toán, biết chiến đấu
mà không sợ thương
tích, biết làm
việc mà không cần an nghỉ, biết xả
thân mà không cần một
phần thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đã làm theo
thánh ý Chúa (Thánh I-NHA-XI-Ô).
- LẠY CHÚA. Xin nhận
lấy tất cả tâm tư tình cảm và ước muốn của con, tất cả
những gì con có và những
gì thuộc về con.
Mọi sự ấy đều do Chúa đã ban cho con,
thì hôm nay con lại xin dâng
chúng cho Chúa. Tất cả là
của Chúa. Xin hãy sử dụng theo ý Chúa muốn. Con chỉ xin Chúa
ban cho con lòng yêu mến Chúa
nồng nàn và sau này
được Chúa ban
ơn cứu độ.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM
ĐAN VINH - HHTM
|