HỌC HỎI
PHÚC ÂM CHÚA NHẬT
4 MÙA VỌNG
NĂM A Mt 1,18-24 ( Lm. Cao Sieu, SJ)
1. Thánh Mát-thêu viết cuốn Phúc âm
để giúp người Do-thái tin Đức Giêsu là Đấng
Mê-si-a (= Đấng Ki-tô). Vào thời Đức Giêsu, dân
Do-thái coi Đấng Mê-si-a là Đấng nào? Có bao nhiêu từ
Kitô trong chương 1 của Phúc âm Mát-thêu?
·
Trong tiếng
Do-thái, Mêsia có nghĩa là người được Thiên
Chúa xức dầu. Người được xức dầu
là người được Thiên Chúa chọn để
thi hành một sứ mạng nào đó. Các vua thường được xức dầu.
Vào thời Đức Giêsu,
dân Do-thái đang sống dưới ách đô hộ của
đế quốc Rôma, nên nói chung, họ mong chờ Thiên
Chúa gửi đến cho họ Đấng Mêsia, cũng gọi
là Đấng Kitô (theo tiếng Hy-lạp), hay Đấng
Thiên Sai. Khi Đấng Mêsia đến như một vi vua,
ngài sẽ đem lại độc lập tự do cho
đất nước, và thịnh vượng cho quê hương.
Trong chương 1 của Phúc Âm theo thánh Mát-thêu, từ Kitô,
nghĩa là Mêsia, được nhắc đến
nhiều lần trong các câu 1, 16, 17, và 18.
2. Đọc Mt 1,18. Đức
Maria “đã thành hôn”, dịch như thế có chính xác
không? Bạn biết gì về tục cưới hỏi của
người Do-thái thời Đức Giêsu?
·
Mát-thêu
1,18 được dịch như sau: “Maria, mẹ của
Người, đã thành hôn với ông Giuse” (xem thêm Lc
1,27; 2,5). Thật ra nên dịch như sau: “Maria đã được
đính hôn với ông Giuse” (mnêsteutheísês). Đối với
tập tục Do-thái, sau khi đính hôn thì đã được
coi là vợ chồng (bởi đó Maria đã được
gọi là vợ ở Mt 1,20.24). Tuy nhiên, vẫn có sự khác
biệt quan trọng giữa đính hôn và thành hôn. Đó là
hai giai đoạn hoàn toàn khác nhau. Trong thời gian đính
hôn, hai người chưa về ở chung nhà, nên chưa
có quan hệ vợ chồng. Đó cũng là tình trạng của
Giuse khi thiên sứ đến báo mộng cho ông. Giuse bối
rối khi thấy hôn thê của mình có thai, dù hai người
chưa chung sống với nhau. Chỉ sau này, khi tin lời
thiên sứ nói, Giuse mới “đón vợ về nhà” (Mt 1,24).
Đó mới là lúc thành
hôn thực sự.
3. Đức Maria có thai do Thánh Thần (c. 18). Câu này cho ta thấy Thánh Thần
là ai và thai nhi là ai?
·
Đức
Maria có thai do (ek) Thánh Thần (Mt 1,18). Đây là một mầu
nhiệm mà chúng ta không hiểu thấu. Đây là chuyện
chưa từng xảy ra bao giờ, chuyện này Giuse cũng
không hề biết. Maria mang thai không do Giuse, nhưng do quyền
năng của Thánh Thần (“bởi phép Đức Chúa Thánh
Thần” trong Kinh Tin Kính). Như thế việc thụ thai
Đức Giêsu có sự can thiệp đặc biệt của
chính Thiên Chúa. Thiên Chúa Cha muốn Con Một của mình làm người
như chúng ta, nhưng cũng có điều khác chúng ta. Người
Con này có nguồn gốc thần linh từ chính Thiên Chúa. Chính
Thiên Chúa mới là Cha thật của Đức Giêsu, chứ
không phải ông Giuse. Khi nhìn ngắm Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ,
chúng ta thấy sự hiện diện của cả Ba Ngôi. Chúa
Thánh Thần đóng vai trò quan trọng trong mầu nhiệm
“Con Thiên Chúa làm người.” Con Thiên Chúa thành người
được là nhờ quyền năng Thánh Thần (xem
thêm Lc 1,35).
4. Đọc Mt 1,19. Khi biết tin
Maria có thai, Giuse đã phản ứng như thế nào? Bạn
nghĩ gì về quyết định của Giuse? Bạn thấy
Giuse có là người công chính không?
·
Khi nghe
tin Maria mang thai, ông Giuse có thể có ba giải pháp: tố giác
Maria cách công khai để Maria phải chịu một hình
phạt nào đó, rồi ly dị Maria; cứ lấy Maria làm
vợ dù biết thai nhi không phải là con mình; không tố giác
công khai, nhưng kín đáo ly dị Maria. Ông Giuse đã chọn
giải pháp cuối cùng. Ông không thể lấy làm vợ
Maria, một người đang mang thai của ai đó mà
ông không rõ, nhưng ông cũng không muốn làm hại danh tiếng
của Maria, người mà ông vẫn yêu mến và tin tưởng.
Chắc Giuse đã phải suy nghĩ rất lâu trước
khi chọn giải pháp trung dung này. Giuse là người công
chính trước mặt Chúa, vì ông đã có quyết định
này, phù hợp với Luật Chúa.
5. Trong chương 1 và 2 của Phúc
âm Mát-thêu, thiên sứ của ĐỨC CHÚA báo mộng cho
Giuse mấy lần? Đọc thêm Mt 2,12; 27,19. Bạn có
thích Thiên Chúa nói thánh ý của Ngài qua giấc mộng không?
·
Trong chương
1 và 2 của Phúc Âm Mát-thêu, thiên sứ báo mộng cho Giuse bốn
lần (Mt 1,20; 2,13.19.22). Các nhà chiêm tinh và vợ của
Philatô cũng được báo mộng (Mt 2,12; 27,19). Trong Cựu
Ước, báo mộng được coi là một hình thức
Thiên Chúa nói chuyện và dạy bảo con người. Trong
thời Tân Ước, có vẻ hình thức này ít được
nói đến. Thiên Chúa hôm nay nói với chúng ta qua lời của
Chúa Giêsu trong Sách Thánh, qua Hội Thánh, qua các vị lãnh đạo,
qua các biến cố… Đó là những hình thức chắc
chắn hơn và khách quan hơn để Chúa nói với chúng
ta.
6. Đọc Mt 1,20-21. Thiên sứ mời
gọi Giuse làm những việc gì? Những việc đó
có quan trọng không? Đọc Mt 1,24-25. Giuse có nói tiếng
Xin vâng đối với thiên sứ không?
·
Qua Mt
1,20-21, thiên sứ mời Giuse làm những việc sau: đón
Maria về làm vợ, và đón nhận đứa con trong bụng
Maria làm con của mình. Đây là hai việc hết sức cần
thiết. Nếu Giuse từ chối, mọi sự sẽ
đổ vỡ. Maria sẽ là mẹ đơn thân, bị
chê cười; Giêsu sẽ không có chỗ dựa của một
người cha trần thế. Giuse đón nhận thai nhi
trong bụng Maria là con mình bằng cách đặt tên cho
đứa bé là Giêsu. Đặt tên là quyền của người
cha. Giuse đã nói tiếng Xin Vâng với thiên sứ, vì sau
đó ông đã thực hiện hai điều thiên sứ
truyền dạy (Mt 1,24-25).
7. Dựa vào Mt 1,20-23 hãy cho biết
Đức Giêsu là ai? Đức Giêsu có phải là Đấng
Mê-si-a giống như dân Do-thái thường mong đợi
không?
·
Khi
đọc Mt 1,20-23 ta thấy một số nét nơi khuôn mặt
của Đức Giêsu là Đấng Mêsia. Ngài có nguồn gốc
từ Thiên Chúa, vì được thụ thai bởi Thánh Thần,
chứ không bởi Giuse, một người thuộc dòng
dõi vua Đa-vít (Mt 1,20). Đức Giêsu là Đấng đến
để cứu Dân Israel, nhưng không phải là cứu họ
khỏi nô lệ cho đế quốc Rô-ma, nhưng là “cứu
dân khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21).
Đức Giêsu không phải
chỉ là một Đấng Mêsia, là con của một đôi
vợ chồng người Do-thái. Ngài cao trọng vượt
quá ước mơ của mọi người Do-thái: Ngài
là Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1,23). Nơi
Đức Giêsu, Thiên Chúa hiện diện và cứu độ
Dân Người, không phải chỉ là Dân Do-thái mà là đoàn
Dân mới của Thiên Chúa từ khắp tứ phương
thiên hạ (Mt 28,19-20).
8. Đọc Mt 1,22-23. Đây là lời
của ngôn sứ Isaia. Ông đã viết vào khoảng thời
gian nào? Thánh sử Mát-thêu thấy lời tiên tri của ngôn
sứ Isaia ứng nghiệm với Đức Giêsu ở những
điểm nào?
·
Lời
ngôn sứ Isaia (7,14) được
viết từ 750 năm trước nay được ứng
nghiệm một cách kỳ diệu. Thánh sử Mát-thêu khi
đọc Isaia 7,14 theo bản dịch Bảy Mươi
(LXX) đã vui sướng khi gặp câu: “một trinh nữ
(parthenos) sẽ thụ thai…con trẻ là Emmanuel.” Đối
với Mát-thêu, Đức Maria chính là trinh nữ đó, và
Hài nhi Giêsu chính là Emmanuel.
GỢI
Ý SUY NIỆM: Đời sống
hôn nhân giữa Đức Maria và thánh Giuse gặp những
khó khăn ngay từ đầu. Tại sao có những khó
khăn đó? Gương của thánh Giuse có giúp bạn vượt
qua những khó khăn thách đố của đời sống
hôn nhân không?
|