HIỆP SỐNG
TIN MỪNG
CN 5 THƯỜNG
NIÊN B
G 7,1-4.6-7 ; 1
Cr 9,16-19.22-23 ; Mc 1,29-39
KÊT HIỆP VỚI CHÚA GIÊ-SU CHU TOÀN SỨ VỤ CỨU NHÂN
ĐỘ THẾ
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc
1,29-39
(29) Vừa
ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức
Giê-su đến nhà hai ông Si-mon và An-rê, có ông
Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. (30) Lúc đó,
bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt,
nằm trên giường. Lập tức họ
nói cho Người biết tình trạng của
bà. (31) Người lại gần, cầm lấy
tay bà mà đỡ dậy. Cơn sốt dứt
ngay và bà phục vụ các ngài. (32) Chiều
đến, khi mặt trời đã lặn,
người ta đem mọi kẻ ốm đau và
những ai bị quỉ ám đến cho Người.
(33) Cả thành xúm lại trước cửa.
(34) Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm
đau mắc đủ thứ bệnh tật, và
trừ nhiều quỉ, nhưng không cho quỉ nói,
vì chúng biết Người là ai. (35) Sáng
sớm, lúc trời còn tối mịt, Người
đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và
cầu nguyện ở đó. (36) Ông Si-mon và các
bạn kéo nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người,
các ông thưa: “Mọi người đang tìm
Thầy đấy!” (38) Người bảo các ông:
“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các
làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng
ở đó nữa. Vì Thầy ra đi cốt
để làm việc đó”. (39) Rồi Người
đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội
đường của họ, và trừ quỉ.
2. Ý CHÍNH: Mác-cô tường
thuật một ngày làm việc tiêu biểu của
Đức Giê-su ở thành Ca-phác-na-um: Người
giảng dạy trong hội đường vào ngày
Sa-bát (c. 21); Chữa một người bị
thần ô uế nhập (c. 23-28); Đến thăm nhà
hai anh em Si-mon và An-rê và chữa bệnh cảm
sốt cho bà mẹ vợ của ông Si-mon (c. 29-32);
Buổi chiều, Người tiếp tục chữa
lành nhiều kẻ ốm đau và người
bị quỉ ám (c. 32-34). Sáng sớm Người
đã thức dậy và đi đến một
nơi thanh vắng để cầu nguyện với
Chúa Cha (c.35). Người thi hành sứ mệnh
Thiên Sai bằng việc đi khắp nơi rao giảng
Tin Mừng, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma
quỉ (c. 39).
3. CHÚ THÍCH:
- C 29-30: + Nhà hai
ông Si-mon và An-rê: Si-mon và An-rê quê ở Bét-sai-đa
(x. Ga 1,44), nhưng cư trú tại nhà ở thành
Ca-phác-na-um để hành nghề chài lưới.
+ Bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt
nằm trên giường: Người Do Thái
thường cho bệnh tật là do ma quỉ gây ra
và là dấu chỉ sự trừng phạt tội
nhân của Đức Chúa (x. Lv 26,16). Như thế, việc
chữa lành bà mẹ vợ của Si-mon
Phê-rô cho thấy triều đại Thiên Sai được
ngôn sứ I-sai-a loan báo đã bắt đầu
(x. Is 29,18).
- C 31-32: + Cầm lấy
tay bà mà đỡ dậy: Cầm tay là
cử chỉ Đức Giê-su thường làm
khi phục sinh kẻ chết (x. Mc 5,41), hay chữa lành kẻ
bị quỉ ám (x. Mc 9,27). + Cơn sốt dứt
ngay và bà phục vụ các ngài: Phục
vụ ở đây cụ thể là nấu nướng,
dọn bữa để tiếp đãi Đức
Giê-su và các môn đệ. Qua đó, ta có thể
rút ra bài học: Con người vốn mỏng
dòn yếu đuối. Nhưng nếu năng lãnh
nhận các bí tích, sẽ được Chúa
ban sức khỏe để phục vụ tha nhân (x. Ga
13,14-15). + Chiều đến, khi mặt trời
lặn: Tức khoảng 6 giờ chiều,
hết thời gian hưu lễ của ngày Sa-bát,
để bắt đầu ngày thứ nhất
trong tuần.
- C 33-34: + Người
ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai
bị quỉ ám đến cho Người: Đây
là kiểu nói phóng đại để nhấn
mạnh đến tính phổ quát của ơn cứu
độ. + Nhiều kẻ ốm đau mắc
đủ thứ bệnh tật: Đức
Giê-su đến để chữa lành mọi bệnh
hoạn tật nguyền trong dân: Người không những
cứu chữa các bệnh tật về thể
xác mà còn chữa cả những bệnh
tinh thần như xua trừ ma quỉ ra khỏi người
bị chúng nhập vào. + Không cho ma quỉ
nói vì chúng biết Người là ai: Đức
Giê-su cấm quỷ không được tiết lộ
về sứ vụ Thiên Sai của Người.
- C 35-37: + Sáng sớm,
lúc trời còn tối mịt, Người
đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và
cầu nguyện: Trong thời gian giảng đạo,
Tin Mừng cho thấy Đức Giê-su năng cầu
nguyện với Chúa Cha. Nhất là trong những
trường hợp quan trọng: Trong cuộc thần
hiện sau khi chịu phép Rửa (x. Lc 3,21) ; Trước
khi tuyển chọn 12 tông đồ (x. Lc 6,12) ; Sau phép
lạ nhân bánh ra nhiều (x. Mc 6,46) ; Trước
khi Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng
Ki-tô của Thiên Chúa (x. Lc 9,18) ; Khi biến hình trên
núi (x. Lc 9,29) ; Trước giờ chịu khổ
nạn (x. Mt 26,39)...
- C 38-39: + Ông Si-mon và
các bạn kéo nhau đi tìm Người: Đi
tìm Chúa là thái độ biểu lộ sự
hâm mộ của các tông đồ đối với
Thầy Giê-su. + “Mọi người đang tìm
Thầy đấy”: Dân chúng cũng hâm mộ và
đi tìm gặp Đức Giê-su để nghe
Người giảng dạy và được
Người chữa lành bệnh tật. +
“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các
làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng
ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt
để làm việc đó”: Tin Mừng
được rao giảng không chỉ cho một ít
người hay cho dân Do thái... nhưng cho mọi dân
tộc trên thế giới (x. Mt 28,19 ; Cv 1,8).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI 1: Tại sao
Đức Giê-su lại cấm ma quỉ nói ra sự
thật Người là Đấng Thiên Sai?
ĐÁP:
Vì người Do Thái
lúc đó đang trông chờ Đấng Thiên
Sai đến để giải phóng họ thoát ách
thống trị của đế quốc Rô-ma, giống như
Mô-sê đã từng ra tay cứu con cháu Gia-cóp
thoát ách nô lệ cho dân Ai Cập khi xưa. Nhưng
sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su theo ý
Chúa Cha không chỉ
nhằm đáp
ứng ước
mong của người
Do Thái. Sứ
mệnh ấy đã
được
I-sai-a tuyên sấm là: rao giảng Tin Mừng cho người khiêm hạ nghèo
khó, công bố cho người
đang bị đau khổ vì bệnh
tật, tù đày, áp bức bất công...
một thời đại mới đầy niềm
vui, hạnh phúc, ân sủng và bình an (x. Lc
4,18-19). Do đó, Đức Giê-su không muốn cho ma
quỉ làm hỏng kế hoạch cứu thế mà
Người đã lãnh nhận. Nếu để
ma quỷ nói ra sự thật Người
là Đấng
Thiên Sai trong khi dân chúng chưa hiểu rõ sứ mệnh
Thiên Sai thì họ sẽ bắt Người tôn
lên làm Vua (x. Ga 6,15), và quân Rô-ma sẽ kéo đến
phá hủy Đền Thờ và tiêu diệt toàn
dân (x. Ga 11,47-48). Thực tế đã chứng
minh sự e ngại
này có cơ sở: Vào năm 70, khi dân Do Thái không chịu
nổi sự áp bức, đã nổi dậy
chống lại nhà cầm quyền Rô-ma. Lập tức
quân Rô-ma đã kéo đến vây hãm thủ
đô Giê-ru-sa-lem. Cuối cùng họ đã chiếm
được thành này. Họ phóng lửa
đốt cháy đền thờ, tàn sát
quân lính còn sống và bắt mọi thành
phần dân Do Thái phải rời bỏ quê hương,
phân tán đi khắp thế giới. Tai họa
này đã được Đức Giê-su
tiên báo cho các môn đệ biết và dùng
nó để mặc khải
về ngày tận thế. Người cũng
dạy cho các môn đệ phải ứng xử thế nào để
có thể tồn tại
trong những ngày ấy (x. Mt 24,15-21).
HỎI 2: Tại sao
Đức Giê-su là Chúa Con ngang hàng với
Chúa Cha, mà lại phải cầu xin với Chúa
Cha?
ĐÁP:
Đức
Giê-su chỉ có một Ngôi là Ngôi Con hay Ngôi Lời
Thiên Chúa (x. Ga 1,14). Nhưng Người lại có
hai tính: Một là tính Thiên Chúa, hai là tính loài
người. Về
tính Thiên Chúa Đức
Giê-su là “Con Thiên Chúa”, Người luôn cầu nguyện tâm sự
với Chúa Cha, biểu lộ sự hiệp nhất
mật thiết giữa Cha và Con (x. Ga 17,1.11.21). Về tính loài người Đức Giê-su là
“Con Người”, đại diện nhân loại để
cầu xin Chúa Cha tha tội và cho loài người được giao
hòa với Chúa Cha. Về vấn đề này, Thánh
Phao-lô đã dạy như sau: “Đức Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải
nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với
Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ
vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống
phàm nhân, sống như một người trần
thế. Người lại còn hạ mình, vâng
lời cho đến nỗi bằng lòng chịu
chết, chết trên cây thập tự. Chính vì
thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và
tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn
ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh
Giê-su, cả trên trời dưới đất và
trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quì. Và
để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở
miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô
là Chúa” (Pl 2,8-11).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Sáng sớm,
lúc trời còn tối mịt, Người
đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và
cầu nguyện ở đó. Rồi Người
đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội
đường của họ, và trừ quỉ.
(Mc 1,35.39).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GIÁ TRỊ CỦA LỜI CẦU NGUYỆN
CHÂN THÀNH:
FRE-DE-RIC O-ZA-NAM, một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Pháp
vào cuối thế kỷ 19
đã trải qua một
cơn khủng hoảng đức tin lúc đang còn là
sinh viên đại học.
Một hôm, để
tìm chút thanh thản cho
tâm hồn, anh bước
vào một ngôi nhà
thờ cổ ở Pa-ri. Từ
cuối nhà thờ, anh
nhìn thấy một bóng
đen đang quỳ cầu
nguyện cách sốt sắng
ở dãy ghế đầu.
Anh đứng lặng lẽ trong gốc nhà thờ theo dõi cử chỉ của người này.
Và khi người đó
vừa đứng lên
để ra khỏi giáo
đường, chàng
sinh viên chợt nhận ra
người đó chính là nhà bác học vĩ đại Am-pe. Lòng
đầy thắc mắc,
anh theo nhà bác học về
đến phòng làm việc
của ông. Thấy chàng
sinh viên đứng trước
cửa phòng với dáng
vẻ rụt rè, nhà
bác học liền lên
tiếng hỏi:
- Này anh bạn. Tôi có thể giúp gì cho anh ? Giải một bài toán vật lý chăng ?
Chàng sinh viên nhỏ nhẹ đáp:
- Thưa giáo sư, tôi là sinh viên
khoa văn, tôi dốt
về khoa học lắm. Tôi chỉ xin ông hỏi
một số vấn đề về đức tin.
Nhà bác học liền mỉm cười và
khiêm tốn đáp:
- Đức tin là môn mà tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp
anh được điều
gì thì tôi xin sẵn sàng.
- Thưa ông, người ta có thể vừa là một nhà bác học vĩ đại, lại vừa
là một tín hữu chân thành cầu nguyện không ?
Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh sinh viên. Nhưng
rồi ông cũng trả lời :
- Này anh bạn trẻ. Chúng ta chỉ thực sự vĩ đại
khi cầu nguyện chân thành mà thôi.
Câu chuyện nói trên cho thấy không có sự mâu thuẫn giữa khoa học và
đức tin chân
chính.
2) TIẾNG CÒI “YÊN
LẶNG”:
Một hôm, do sự mất
cảnh giác của viên hoa tiêu, con tàu Victoria của
Hải Quân Hoàng Gia Anh đã gặp phải sự
cố nghiêm trọng: Tàu bị đụng phải một
tảng băng ngầm trên vùng biển Bắc
Băng Dương. Vỏ tàu bị bể một miếng
lớn, nước từ chỗ bể tràn
vào khoang tàu. Lúc ấy, các thủy thủ
vừa ăn tối xong và đang dạo mát
trên boong. Lúc đầu, khi con tàu vừa bị
va chạm, mọi người đều nhớn
nhác không biết điều gì mới xảy
ra. Rồi khi nghe tin tàu bị va chạm vào tảng
băng ngầm và sắp chìm, thì ai nấy
đều bị rơi vào cơn hoảng loạn và
không biết phải làm gì. Nhưng rồi một
hiệu còi đặc biệt mang tên “Còi Yên
Lặng” vang lên. Thủy thủ đã được
thực tập nhiều lần và đã hiểu
rõ ý nghĩa của hiệu còi ấy như
sau: “Hãy ngưng tất cả những gì bạn
đang làm, ngồi xuống và giữ yên lặng
trong giây lát, bình tĩnh xem xét tình trạng
bạn đang gặp, và chờ nghe lệnh của
thuyền trưởng”. Nhờ tiếng còi,
mọi thủy thủ đều làm theo yêu cầu và
cuối cùng tai nạn cũng đã được
xử lý kịp thời, và con tàu tránh
được nguy cơ bị chìm đắm.
Trong đời sống
thường nhật, chúng ta cũng thường
bị rơi vào tình trạng khẩn cấp không
biết phải làm gì. Chẳng hạn: khi
đang đi đường tự nhiện bị người khác tông vào mình,
hoặc khi tự nhiên
bị một người thù ghét công khai khích bác...
Bấy giờ điều tốt nhất nên làm là:
Hãy giữ bình tĩnh và yên lặng, rồi
thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Rồi sẵn sàng
lắng nghe Lời Chúa
phán dạy trong tâm hồn.
Chúa luôn muốn ta “Tìm làm vinh danh Thiên Chúa
và vì phần rỗi các linh hồn”. Do đó,
ta cần tránh làm những điều xấu
khiến người đời khinh thường
đạo thánh Chúa. Trái lại cần làm
những điều tốt để anh em lương
dân nhận biết “Thiên Chúa chính là Tình
Yêu” để tôn thờ
yêu mến Ngài. Cần làm những điều
có lợi chung cho tập thể, và tránh những
việc làm ích kỷ hại nhân. Cần làm những
điều “tốt
đạo đẹp đời” như giúp cho mọi
người có cơm ăn áo mặc, sống
vui tươi hạnh phúc hơn và xứng với
nhân phẩm hơn...
3) DỤ NGÔN VỀ CÂY VIẾT CHÌ :
Sau khi sáng chế ra cây viết chì, người chủ đã ngỏ lời với sản phẩm của
mình như sau: Ta muốn
anh bạn phải nhớ đến bốn ý nghĩa
này:
1. Sự tốt lành hay phẩm giá đích thật nằm ở trong con người của anh.
2. Anh cần phải được vót
nhọn, được gọt
dũa, phải chịu đau khổ thì mới hữu dụng được.
3. Anh cần được ai đó sử dụng như một công
cụ làm việc. Còn mình anh thì sẽ chẳng làm được việc gì cả !
4. Anh được yêu cầu đi đến đâu
thì phải để lại
dấu vết trên con đường đã đi qua.
Đời sống của mỗi người
chúng ta cũng giống
như số phận của một cây viết chì. Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã áp dụng ý nghĩa thứ ba nói trên khi nói rằng: “Tôi chỉ là một cây viết
chì trong bàn tay của
Thiên Chúa”. Còn tác giả
sách “Story Power”, đã sử dụng ý nghĩa thứ hai của cây viết chì khi giảng
trong thánh lễ truyền
thanh dành riêng cho các bệnh
nhân như sau : Bệnh
nhân muốn nên hữu dụng cũng cần phải
giống như cây viết
chì được vót
nhọn nhờ các
đau khổ gặp phải
trong cuộc sống. Một cây viết chì mà không được vót nhọn sẽ không có ích lợi gì cho tha nhân.
4) HẾT MỌI NGƯỜI ĐỀU
PHẢI CHỊU ĐỰNG ĐAU KHỔ:
Người Trung Hoa có câu chuyện về một người
đàn bà có đứa
con trai duy nhất đã chết. Trong lúc chịu
đau khổ, bà đã đến năn nỉ xin một ẩn sĩ : “Xin ngài
hãy dạy cho con biết câu
thần chú nào có thể làm cho con trai của con sống lại?” Thay vì
lý luận dài dòng, vị ẩn sĩ nói với bà rằng: “Bà hãy đi tìm về đây một hạt rau cải của một
gia đình nào chưa từng bị buồn khổ. Tôi sẽ dùng hạt rau cải đó chế thành viên thuốc có thể phục hồi mạng sống
cho con trai bà”.
Sau đó người đàn bà đã đi khắp nơi để tìm
ra hạt cải kỳ diệu
đó. Trước hết,
bà đến gõ cửa một lâu đài
nguy nga tráng lệ vì
nghĩ rằng người
giàu có sang trọng chắc
sẽ không bị buồn
khổ. Bà nói: “Tôi đang đi tìm một ngôi nhà mà những người trong đó
không bị buồn khổ.
Vậy có phải ngôi
nhà này không?” Chủ nhà
đáp: “Thưa bà. Chắc
bà đã đến lầm
nhà rồi! Chồng tôi
đang hấp hối nằm
trên giường. Con
trai tôi đã bỏ nhà
đi từ hai hôm nay
mà không biết nó
đang ở đâu.
Tôi sợ rằng sau này
tôi sẽm phải sống
trong cảnh cô đơn góa bụa!” Nghe vậy bà đã ở lại trong nhà này cả ngày để
an ủi bà chủ nhà,
rồi mới tiếp tục
đi tìm một nhà
khác chưa từng bị
buồn khổ. Nhưng bất cứ nơi nào bà ghé
vào, dù là lâu đài sang trọng,
dinh thự giàu có hay ngội nhà tranh vách đất, đâu đâu cũng chỉ nghe thấy chủ nhà kể ra những nỗi buồn
khổ bất hạnh họ đang gặp phải. Mỗi
nơi bà đều phải
an ủi và khích lệ,
đến nỗi dần dần bà trở thành chuyên viên đi động viên những người buồn khổ.
Sau một thời gian bà đã quên hẳn việc đi tìm hạt cải kỳ diệu
để làm thuốc
cho con trai bà được
sống lại.
Khi gặp đau khổ, bạn đừng
bao giờ chán nản
tuyệt vọng... hãy nhớ rằng: Chúa Giê-su đang ở với bạn cũng như Thiên
Chúa luôn ở bên ông
Gióp; Nhớ rằng Chúa
Giê-su không bao giờ bỏ
rơi bạn vì bạn
luôn được Người
yêu thương. Hãy tin tưởng hy vọng và đừng quên nhiệm
vụ của bạn là phải giúp đỡ
an ủi những người bất hạnh.
Khi chính bạn bị đau ốm thể xác
hay tinh thần hoặc chịu
đau khổ vì tình yêu, bạn hãy cởi mở
tâm hồn với Chúa
Giê-su. Người sẽ an
ủi và chữa lành
cho bạn, sẽ cầm
tay bạn cho đứng dậy, như Người đã
chữa cho nhạc mẫu ông
Phê-rô khỏi bệnh cảm
sốt. Hãy mau mắn
đáp lại tiếng
Chúa mời gọi,
để cùng Người
thăm viếng phục vụ tha nhân. Hãy ý thức rằng : Bạn luôn
có Chúa đồng hành
và ban ơn nâng đỡ.
Người sẽ giúp bạn vượt qua mọi thử thách gặp phải trong cuộc sống.
3. THẢO LUẬN:
Để góp phần
cải thiện môi trường
xã hội được
an toàn sạch đẹp,
công bình và nhân ái hơn...
chúng ta cần phải
bắt đầu
từ đâu và thực
hiện bằng cách nào?
4. SUY NIỆM:
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy công việc hằng ngày của Chúa Giê-su làm gồm các việc như : cầu nguyện,
rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh
tật cả về thể xác cũng như tâm hồn, để nêu gương
cho các tín hữu chúng
ta học tập noi theo.
1) Người luôn cầu nguyện kết hiệp mật
thiết với Chúa Cha:
“Sáng sớm, Đức Giê-su tìm nơi
thanh vắng cầu nguyện”
(1,35). Suốt ngày lo toan với bao công việc,
giao tiếp với đủ hạng người. Dù
vậy, Đức Giê-su
đều dành ra thời gian lúc sáng tinh sương
để đến nơi
thanh vắng tâm sự
với Chúa Cha. Người
cần sống riêng với
Cha, tâm sự về mọi
công việc, về những
khó khăn đau khổ
gặp phải... Người cầu nguyện với lòng
mến Cha, muốn được
kết hiệp với Cha, để đón nhận từ nơi Cha sức mạnh
rất cần cho việc loan báo Tin Mừng.
2) Người đi khắp nơi loan
báo Tin Mừng Nước
Trời:
Việc quan trọng thứ hai Đức Giê-su chu
toàn là đi loan báo Tin mừng
Nước Trời: “Ngày Sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường giảng dạy”
(Mc 1,21). Người đọc Sách Thánh và giải nghĩa. Thiên hạ sửng sốt về lời
giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một
Đấng có uy quyền”
(x. Mc 1,22).
3) Người chữa lành các bệnh tật về thể xác
và tâm hồn:
Người giảng dạy kèm theo chữa lành nhiều bệnh nhân: “Ra khỏi hội đường,
Đức Giê-su vào nhà ông Si-mon… Bà nhạc của ông Si-mon đang bị sốt. Đức Giê-su
đến bên giường, cầm tay bà mà
đỡ dậy. Cơn sốt
liền dứt ngay và bà đã trỗi dậy làm bữa phục vụ các ngài” (Mc
1,29-31). “Chiều đến,
khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau
và những ai bị quỷ
ám đến cho Người”
(Mc 1,32). Tất cả đều được Người
chữa lành.
4) Cần làm gì để noi gương Chúa Giê-su chu
toàn sứ vụ loan báo
Tin Mừng? :
- Hãy năng cầu nguyện sớm hôm
để kết hiệp mật
thiết với Thiên Chúa Cha.
- Sẵn sàng chịu đựng các đau khổ gặp phải trong cuộc sống. Hãy nhớ rằng : Đau khổ
chính là hậu quả
do tội Nguyên Tổ
để lại mà mọi
con cháu A-đam E-và phải
chịu đựng để đền tội mình.
Cần kết hiệp sự
đau khổ gặp phải do bệnh tật, tai nạn
với cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su
để đón nhận ơn cứu độ của
Người.
- Noi gương Đức Giê-su đã tích cực giải quyết các
bệnh tật đau khổ,
Hội Thánh hôm nay cũng luôn quan tâm phục vụ những người
nghèo khó, bệnh
tật và bất
hạnh trong xã
hội. Ngoài việc mở trường học,
trường dạy nghề, Hội Thánh còn xây nhiều trại phong, bệnh viện
miễn phí, trại dưỡng
lão, mái ấm trẻ mồ
côi v.v… để giúp
những người nghèo
khó bệnh tật vượt
qua các đau khổ gặp
phải trong cuộc sống.
- Trong Thánh Lễ hôm nay, mỗi người chúng ta hãy đặc biệt cầu cho những
người đang đau khổ ở khắp nơi : đau khổ vì chiến tranh, thiên tai hay già yếu bệnh tật, cụ thể
là những người
đang bị lây nhiễm
dịch cúm Covid-19...
Khi gặp đau khổ, chúng ta hãy
thinh lặng nhìn lên
thánh giá Chúa Giê-su, suy niệm về cuộc khổ nạn của Người, rồi cầu xin
cho mình biết
chấp nhận đau khổ để đền tội. Ngoài ra chúng ta cũng hãy kết hiệp với Chúa đi
thăm viếng, động viên và chia sẻ giúp đỡ cụ thể những người
nghèo khổ bệnh tật
và bất hạnh, tích
cực góp phần biến đổi môi
trường sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công
bình nhân ái hơn, hầu sớm
trở thành “Trời Mới
Đất Mới” theo thánh ý Thiên Chúa.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Cha từ ái. Xin dạy chúng con biết giữ thinh lặng để
gặp Chúa, để
lắng nghe Lời Chúa dạy và tâm sự
với Chúa :
Xin dạy chúng con giữ thinh lặng con mắt,
để biết nhắm lại trước những sai
lỗi của tha nhân, biết quay đi truớc những dịp tội làm
cho lòng chúng con xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng đôi tai,
để khép lại trước những cám
dỗ của thế gian và
ma quỷ, nhưng biết
mở ra lắng nghe những tiếng kêu than của những người
đang bị ức hiếp bách hại.
Xin dạy chúng con biết thinh lặng miệng lưỡi,
để tránh nói những
lời cay độc gây chia rẽ bất hạnh, nhưng biết mở miệng ca
tụng tình thương của Chúa và mang lại
niềm vui cho mọi người.
Xin dạy chúng con thinh lặng lòng trí, để biết khép lại trước dối trá,
nhưng biết đón
nhận sự thật.
Cuối cùng xin dạy
chúng con biết thinh lặng
quả tim, để tránh những tình cảm ích kỷ, thù hằn, ganh ghét, nhưng biết đón nhận Tình Yêu của Chúa mọi lúc mọi nơi. (Theo mẹ Tê-rê-xa
Can-quýt-ta)
X. HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM