HIỆP SỐNG TIN MỪNG CN LỄ HIỂN
LINH
Is 60,1-6 ; Ep 3,2-3a.5-6 ; Mt 2,1-12
THÀNH ÁNH SAO LẠ DẪN ĐƯỜNG CHO THA NHÂN
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Mt 2,1-12
(1) Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem,
miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì,
có mấy nhà chiêm tinh từ phương
Đông đến Giê-ru-sa-lem (2) và hỏi : “Đức
Vua dân Do Thái mới sinh hiện đang ở
đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người
xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi
đến bái lạy Người”. (3) Nghe tin ấy,
vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành
Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập
tất cả các thượng tế, các kinh sư
trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô
phải sinh ra ở đâu ? (5) Họ trả lời
: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ
có chép rằng : (6) “Phần ngươi hỡi
Bê-lem, miền đất Giu-đa. Ngươi đâu phải
là thành nhỏ nhất của Giu-đa. Vì ngươi
là nơi Vị Lãnh Tụ chăn dắt Ít-ra-en
dân Ta sẽ ra đời”. (7) Bấy giờ vua
Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh
đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ
ngôi sao đã xuất hiện. (8) Rồi vua phái các
vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng : “Xin
qúi ngài đi dò hỏi tường tận
về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo
lại cho Trẫm, để Trẫm cũng đến bái
lạy Người”. (9) Nghe nhà vua nói thế,
họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã
thấy ở phương Đông lại xuất hiện
dẫn đường cho họ đến tận nơi
Hài Nhi ở mới dừng lại. (10) Trông
thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11)
Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu
là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy
Người. Rồi mở bảo tráp, lấy
vàng, nhũ hương và mộc dược
mà dâng tiến. (12) Sau đó họ được
báo mộng là đừng trở lại
gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối
khác mà về xứ mình.
2. Ý CHÍNH: NHỜ
ÁNH SAO DẪN ĐƯỜNG, DÂN NGOẠI ĐÃ TÌM THẤY CHÚA.
Khi Đức Giê-su giáng sinh tại Bê-lem, có
mấy đạo sĩ từ phương Đông
đã theo ngôi sao lạ đi tìm Đấng Cứu
Thế. Nhờ ánh sao dẫn đường và
sau khi vượt qua nhiều trở ngại, cuối
cùng các ông đã gặp được
Hài Nhi Cứu Thế. Các ông đã biểu
lộ đức tin bằng thái độ sụp
lạy và tiến dâng lễ vật là vàng, nhũ
hương và mộc dược. Sau đó, các
ông vâng lời thiên thần để theo con đường
khác trở về quê hương.
3. CHÚ THÍCH :
- C 1-2 : +Vua Hê-rô-đê : Đây là
Hê-rô-đê Đại Vương, một con người
đa nghi, độc ác và tham quyền cố vị,
băng hà vào năm 4 sau Công Nguyên (x. Mt 2,15). Phân biệt
với Hê-rô-đê An-ti-pa hay Hê-rô-đê Con, kế vị
vua cha cai trị xứ Ga-li-lê. Hê-rô-đê Con cũng
độc ác không kém vua cha. Chính ông đã
ra lệnh chém đầu Gio-an Tẩy Giả và có
lần đã xét xử Đức Giê-su
trong cuộc khổ nạn của Người. +Mấy
nhà chiêm tinh : Cũng gọi là đạo sĩ,
đến từ phương Đông (x. Ds 23-24). Đây
là những nhà thông thái, am tường
khoa chiêm tinh. Dựa vào 3 lễ vật họ dâng mà
người ta quả quyết có 3 vị. Truyền
thuyết dân gian còn kể tên 3 vị ấy: Melchior da
trắng ; Gaspar da vàng ; Balthaza da đen để nói
lên rằng: Ơn cứu độ phổ quát
cho mọi dân tộc, màu da hay tiếng nói, không chỉ
riêng cho dân Do Thái.
- C 5-6 : +Họ trả lời : “Tại
Bê-lem.”.. : Có một sự đối nghịch
về thái độ đối với Đấng
Cứu Thế giữa dân Do Thái và lương
dân: Các thượng tế và kinh sư là
những người dựa vào Kinh Thánh
biết rõ nơi sinh của Hài Nhi Cứu Thế
là Bê-lem, nhưng lại thờ ơ. Đang khi dân
ngoại vất vả đi tìm Người. +Thành
Bê-lem : Là một thị trấn nhỏ thuộc miền
núi xứ Giu-đê, cách Giê-ru-sa-lem 10 cây số
về phía Nam. Bê-lem này là quê hương của
vua Đa-vít (x. 1 Sm 16,1 tt).
- C 7-8 : +Hỏi cặn kẽ về
ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện : Vì
Hê-rô-đê muốn biết đích xác tuổi của
Hài Nhi Cứu Thế và đã ra lệnh cho
quân lính giết các trẻ nam tại Bê-lem và vùng
phụ cận từ hai tuổi trở xuống.
- C 9-10 : +Ngôi sao họ đã thấy
ở phương Đông lại xuất hiện dẫn
đường cho họ : Đây là một ngôi
sao có những đặc tính khác thường
như: Lúc ẩn lúc hiện, lúc đi trước
dẫn đường và lúc thì dừng
lại... do Thiên Chúa ban, để trợ giúp
các nhà chiêm tinh đi tìm Hài Nhi Cứu
Thế.
- C 11-12 : +Họ vào nhà :
Chắc chắn sau đêm Chúa giáng sinh, hai
ông bà Giu-se Ma-ri-a không tiếp tục cư ngụ tại
cánh đồng Bê-lem vì thiếu các tiện
nghi tối thiểu mà đã vào thị trấn
Bê-lem thuê một căn nhà ở tạm.+ Sấp
mình bái lạy Người : Các đạo
sĩ biểu lộ đức tin Hài Nhi là
Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. + Lấy
vàng, nhũ hương và mộc dược
mà dâng tiến : Các nhà chiêm tinh dâng lên Hài
Nhi ba lễ vật là vàng, nhũ hương và
mộc dược, là đặc sản của
quê hương các ông. Vàng tượng trưng
đức tin, nhũ hương tượng trưng
đức cậy và mộc dược tượng
trưng đức mến. Theo các giáo phụ
thì Vàng ám chỉ tước vị Vua, nhũ
hương chỉ tước vị Tư Tế, mộc
dược ám chỉ cuộc tử nạn và
mai táng bằng dầu thơm sau này. + Đi
lối khác về xứ mình : Hê-rô-đê
không thể chống lại quyền năng, tình thương
và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Những
ai chống lại Thiên Chúa sớm muộn cũng
sẽ thất bại và chuốc lấy hậu quả
tai hại cho mình mà thôi.
4. CÂU HỎI : 1) Phân biệt Hê-rô-đê
Đại Vương khác với vua Hê-ro-đê
An-ti-pa thế nào trong sự đối xử với
Đức Giê-su và về sự gian ác quỷ
quyệt ? 2) Các nhà chiêm tin trong Tin Mừng có
phải là vua không ? Vì sao người ta gọi
là 3 vua và theo truyền thuyết thì tên ba vị
là gì và mang ý nghĩa như thế nào
? 3) Các thượng tế và kinh sư Do thái
dựa vào đâu mà nói nơi sinh của
Đấng Cứu Thế là Bê-lem ? So sánh giữa
thái độ của các nhà thông thái của
dân Do thái và của các đạo sĩ ngoại
giáo trước việc Đấng Cứu Thế
ra đời như thế nào ? 4) Hê-rô-đê hỏi
về ngày giờ ngôi sao lạ xuất hiện
để làm gì ? 5) Các đạo sĩ biều
lộ đức tin thế nào khi gặp Hài
Nhi Cứu Thế ? 6) Ý nghĩa tượng trưng
của ba lễ vật các đạo sĩ dâng là
gì? Các giáo phụ giải thích ba lễ vật
như thế nào ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Họ vào nhà,
thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà
Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người,
rồi mở bảo tráp, lấy vàng nhũ hương
và mộc dược mà dâng tiến” (Mt 2,11).
2. CÂU CHUYỆN :
1) MÓN QUÀ CỦA
VỊ ĐẠO SĨ THỨ TƯ :
Chuyện kể rằng, khi
ba đạo sĩ là Gaspar, Melchior, Balthazar và đoàn tùy tùng
vừa đi khỏi làng Be-lem, thì vị đạo sĩ
thứ tư cũng vội chạy đến. Ông cũng
đã nhìn thấy ngôi sao lạ và cũng như ba ông kia, ông
dắt vào lưng ba viên ngọc quí là gia sản quí nhất
của ông và vội vã lên đường. Nhưng sau cùng,
ông đã đến trễ vì gặp nhiều sự cố
phải giải quyết trên đường : ba vị kia
đã gặp Chúa rồi và đã trở về nhà rồi !…
Còn ông vừa đến trễ và nhất là lại chỉ
đến với hai bàn tay trắng… vì không còn viên ngọc
quí nào làm lễ vật dâng cho Hài Nhi Cứu Thế…
Đến nơi, ông nhẹ
tay mở cửa chuồng bò để vào thăm bé Giê-su, Mẹ
người và người cha nuôi của Người. Trời
tối, ông thấy Giu-se đang nằm nghỉ trên đống
rơm, bé Giê-su thì đang say ngủ trong lòng Mẹ.
Rón rén, vị đạo sĩ
thứ tư tiến lại gần, phục mình dưới
chân bé Giê-su và Mẹ Người và bắt đầu thưa
với Người qua dòng nước mắt :
– Lạy Chúa, con đến
để dâng lên ngài lễ vật giống như các vị
đạo sĩ kia, đó là ba viên ngọc quý to như trứng
bồ câu. Nhưng giờ đây con lại không còn viên nào nữa…
Con thấy ba vị kia đi trước con ngồi trên lạc
đà, con định tiến nhanh lên để đi chung với
họ. Nhưng rồi rượu ngon, tiếng chim hót làm
con say mê. Tối hôm đó con đã ngủ lại trong một
quán trọ. Khi bước vào quán, con thấy một cụ
già đau nặng đang lên cơn sốt rét nằm co quắp
run rẩy bên lò sưởi. Ngày mai, ông sẽ bị chủ
quán đuổi ra ngoài đường nếu không trả
tiền ở trọ. Lạy Chúa, xin tha cho con, con đã lấy
một viên ngọc trong túi ra và đưa cho chủ quán
để nhờ ông này tìm thầy chạy thuốc chữa
bệnh và nếu ông lão có bị chết, thì cũng có đủ
tiền trả chi phí an táng cho ông.
Ngày hôm sau, con ra đi, giục
con lừa của con chạy đuổi theo ba vị kia, vì
họ đi bằng lạc đà chậm hơn con. Con
đường con đi qua thật vắng vẻ và nhiều
cây cối. Một hôm, đang đi thì con nghe thấy có tiếng
kêu cứu phát ra từ một bụi rậm. Con nhảy xuống
lừa và thấy mấy tên lính đang hãm hiếp một
thiếu phụ trẻ. Họ đông quá, con không đủ
sức chống lại. Lạy Chúa, xin tha cho con : Một lần
nữa con lại đưa tay vào túi lấy ra viên ngọc
thứ hai để xin chuộc lại người thiếu
phụ. Cô ta hôn tay con rồi vội vã chạy như bay vào
con đường dẫn lên núi.
Giờ đây chỉ còn lại
một viên ngọc duy nhất trong túi. Con tiếp tục lên
đường. Ít ngày sau, con đã tới gần thị
trấn Be-lem. Lúc đó đã quá trưa, con nghĩ mình sẽ
cố đến nơi trước khi trời tối. Nhưng
kìa một bọn lính đang hung hăng đốt phá một
ngôi làng nhỏ. Con hỏi thăm người đi đường
thì biết bọn lính đang thi hành lệnh vua Hê-rô-đê
là giết tất cả các con trẻ từ hai tuổi trở
xuống tại Be-lem và vùng phụ cận. Bấy giờ một
tên lính đang nắm trên tay một em bé trần truồng,
đưa qua đưa lại trước mặt. Đứa
bé dãy dụa khóc thét vì sợ. Tên lính nói với mẹ đứa
trẻ : ”Bây giờ tao sẽ cho con mày vào đống lửa
và nó sẽ bị thiêu cháy như một con heo sữa !” Người
mẹ thì đang quì lạy và gào khóc dưới chân tên lính.
Không chịu nổi cảnh ấy, một lần nữa,
con lấy ra viên ngọc cuối cùng trao cho tên lính để
yêu cầu trả con cho bà mẹ. Mẹ nó ôm chặt lấy
con, vội chạy trốn đi không kịp nói lời cám ơn.
Lạy Chúa, thế là cuối cùng con đã đến đây
với hai bàn tay trắng. Xin Chúa tha cho con…
Nói xong ông sấp mặt sát
đất hồi lâu. Thinh lặng bao trùm chuồng bò. Rồi
ông từ từ ngước nhìn lên thì thấy ông Giu-se
đã thức dậy, bé Giê-su vẫn nằm trong tay Mẹ
Ma-ri-a. Bé quay mặt về phía ông, chìa đôi tay tí hon ra trước
mặt ông. Hai mẹ con đều nhìn ông mỉm cười
như gián tiếp tiếp nhận các món quà bác ái yêu thương
ông đã quảng đại thực hiện cho các người
bệnh tật nghèo khổ trước đó…
2) ĐỨC
TIN ĐƯỢC CHIẾU SÁNG BẰNG VIỆC TẶNG QUÀ
CHO THA NHÂN :
Trong cuộc gặp gỡ với
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chủ tịch Liên Xô
Gorbachov đã trao tặng và nhận quà. Nhà lãnh đạo của
Liên Xô đã tặng cho Đức Thánh Cha một tập Kinh
Thánh, Thánh Vịnh in vào thế kỷ 13 và 14. Món quà là cuốn
Kinh Thánh có ý khẳng định rằng giá trị đạo
đức và luân lý Kitô giáo là những nhân tố cần thiết
để xây dựng xã hội tốt đẹp.
Đáp lại Đức Thánh
Cha đã tặng cho nhà lãnh đạo Liên Xô một quyển
Tân Ước có ghi hàng chữ : “Ta là Đường, là Sự
Thật, và là Sự Sống”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II và toàn thể Giáo Hội muốn trao tặng Đức
Kitô cho một xã hội đã từ lâu quên lãng Thiên Chúa.
Riêng bà Raissa, phu nhân chủ tịch
Gorbachov, Đức Thánh Cha đã tặng cho bà một cổ
tràng hạt. Mẹ Ma-ri-a là nữ vương hòa bình. Do
đó, đây là món quà rất cao quý mà một vị giáo hoàng
muốn tặng cho một vị phu nhân chủ tịch hay
những ai đang mưu tìm hòa bình cho nhân loại.
3) ĐỨC TIN ĐƯỢC CHIẾU SÁNG
BẰNG VIỆC CẢM THÔNG VỚI THA NHÂN :
Có một bé gái cùng với mẹ đi viếng hang đá.
Bà mẹ giải thích cho em rằng ba nhà Đạo Sĩ dâng
tiến của lễ cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương
và mộc dược. Cô bé nhìn Hài Nhi trong máng cỏ một
cách cung kính rồi quay sang hỏi mẹ: “Tại sao các
đạo sĩ không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái
giường nhỏ, mà để Chúa phải nằm trong máng
rơm lạnh lẽo như vậy hả mẹ ?”
Một tấm lòng và một sự quan tâm
thực sự đến nhu cầu của tha nhân. Cô bé cảm
nhận được nhu cầu của cuộc sống
thực tế đời thường. Sự kiện Chúa
Giê-su sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ đã khơi dậy
được tâm tư và sự cảm thông của lòng em
gái này. Chúa đến trong nghèo nàn để mời gọi
chúng ta cùng chia sẻ tâm tình với những người cùng
khổ nghèo đói chung quanh chúng ta. Nhu cầu thực tế
của cuộc sống là miếng cơm manh áo và một chỗ
để nương thân. Hài Nhi Giê-su đã chạm đến
cái cùng cực nghèo khó của thân phận con người. Từ
đó, Chúa mời gọi chúng ta: "Ta bảo thật các
ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế
cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta
đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."(Mt
25, 40).
4) ĐỨC TIN ĐƯỢC CHIẾU SÁNG
BẰNG VIỆC CÔNG KHAI CẦU NGUYỆN :
ARTHUR JONES gia nhập không lực
Hoàng gia, anh được huấn luyện trong một trại
lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên,
anh đã phải cân nhắc về một quyết định
: “Có nên quì gối đọc kinh như thói quen ở nhà
không ?”. Ban đầu anh cảm thấy hơi ngượng,
nhưng rồi anh tự nhủ : “Chẳng lẽ mình phải
thay đổi cách sống vì sợ kẻ khác dòm ngó sao ?”
Anh liền quyết định
cứ quì gối đọc kinh như thói quen. Khi vừa làm
dấu kết thúc buổi cầu nguyện, mọi người
mới biết anh là người Công giáo. Hơn nữa, anh
lại là người Công giáo duy nhất trong trại lính. Tuy
nhiên, anh vẫn quì gối cầu nguyện hàng đêm, và sau
đó thường dẫn đến những cuộc tranh
cãi hàng giờ.
Cuối khóa huấn luyện,
có người đến nói với anh :
– Anh là người Kitô hữu
tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
– Cám ơn bạn, tôi không
nghĩ mình là Kitô hữu tốt nhất đâu. Có thể tôi
là người Công giáo dám công khai biểu lộ đức
tin.
Ánh sáng Đức Tin của
người lính đã tỏa sáng trong trại huấn luyện
của không lực hoàn gia. Đúng như lời Đức
Giê-su đã nói: “Các con là ánh sáng thế gian” (x. Mt 5,14-16). Như
ánh sao lạ đã mọc lên để dẫn đường
cho các đạo sĩ, ngôi sao Tin Mừng cũng đã xuất
hiện để soi dọi vào tâm hồn tăm tối của
chúng ta. Để từ đây, ánh sáng đức tin luôn tỏa
rạng ngời.
3. SUY NIỆM
:
1) XIN THÌ SẼ ĐƯỢC; TÌM THÌ SẼ
GẶP; GÕ THÌ SẼ MỞ :
Khi hay tin Đấng Cứu Thế mới ra đời,
thái độ của các người liên quan như thế
nào ?
- Các mục đồng nghèo khó : đang
chăn giữ đoàn chiên ở vùng phụ cận Be-lem
đã mau lên đường đi tìm kiếm Hài Nhi Cứu
Thế dựa theo dấu chỉ mà sứ thần đã cho
họ biết. Vua Hê-rô-đê và hoàng cung nghe tin đã đi
tìm nhưng không phải để triều bái Người
như vua đã nói với các đạo sĩ, nhưng là
để tìm giết Người. Còn dân thành Giê-ru-sa-lem thì
hoảng hốt, thay vì vui mừng trước tin Đấng
Cứu Thế đã ra đời. Riêng các thượng tế
và luật sĩ có sự hiểu biết Lời Chúa trong
Kinh Thánh, đã có thể chỉ đường cho các đạo
sĩ hãy tìm Đấng Cứu Thế tại Be-lem, nhưng
chính họ lại không thiết tha đi tìm. Chỉ có các vị
đạo sĩ khi nhìn thấy ngôi sao lạ bên trời
Đông, đã vội vã chuẩn bị lễ vật và lên
đường tìm kiếm. Các ngài đã trải qua nhiều
nỗi vất vả và trắc trở và cuối cùng đã
tìm thấy Hài Nhi Cứu Thế. Họ đã sụp lạy,
dâng tiến lễ vật và nghe lời sứ thần mộng
báo, họ đã chọn đi theo con đường khác trở
về quê hương mà không quay lại với con đường
gian ác của vua Hê-rô-đê muốn tìm giết Hài Nhi mới
sinh.
- Các vị đạo sĩ : chỉ có một
dấu hiệu mơ hồ là ánh sao lạ trên bầu trời,
nhưng họ đã can đảm ra đi và kiên trì tìm kiếm,
nên đã được Chúa trợ giúp vượt qua những
gian nan để tìm thấy Hài Nhi Cứu Thế, rồi
tin thờ Người và được hưởng ơn
cứu độ Người ban cho. Ngày nay cũng có rất
đông anh chị em lương dân đang miệt mài nghiên
cứu tìm kiếm sự thật trong các lãnh vực : khoa học
kỹ thuật, triết lý, nghệ thuật..., đang cố
gắng tu tập để nên tốt hơn dựa theo ánh
sáng giới hạn là các điều thiện hảo nơi
các tôn giáo ngoài Kitô giáo, hay đang tận tâm lo bảo về
môi trường trái đất ngày một an toàn tốt
đẹp hơn. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa vẫn đang
đồng hành với họ mà họ không hay biết. Xin
cho họ sớm nhận ra sự hiện diện của
Thiên Chúa trong trật tự lạ lùng nơi vũ trụ,
và giúp họ sớm nhận biết Chúa Giê-su là “sự thật
toàn vẹn, sự sống đời đời và là đường
duy nhất dẫn đưa loài người lên trời gặp
Thiên Chúa”.
- Các thượng
tế và kinh sư : Khi được hỏi Đức
Kitô sinh ra ở đâu, thì họ đã trả lời vanh vách:
Tại Be-lem, miền đất Giuđa, vì trong sách tiên tri
có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Be-lem, miền
đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ
nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ
chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời”. Sự hiểu
biết của họ thật chính xác, nhưng mới chỉ
là hiểu biết theo sách vở, nên đã không đủ mạnh
để thúc đẩy họ hành động dấn thân
đi tìm Chúa.
- Mỗi người tín hữu hôm nay : Nguyên
việc tin thờ Chúa tại nhà thờ, nghe Lời Chúa giáo
huấn là điều cần, nhưng chưa đủ
để giúp chúng ta đón nhận được ơn cứu
độ của Thiên Chúa. Chúa đòi chúng ta còn phải luôn
đi tìm Chúa và thực thi thánh ý của Ngài qua việc học
sống Lời Chúa trong Thánh Kinh, và thánh lễ và qua các dấu
chỉ của thời đại. Rồi khi đã tìm gặp
Chúa, chúng ta còn phải chu toàn sứ vụ làm cho “Danh Cha cả
sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện
dưới đất cũng như trên trời”. Chúa đến
để ban ơn cứu độ cho mọi người,
nhưng không phải hết mọi người đều
được ơn cứu độ, mà chỉ những
ai tin và đi theo con đường của Chúa Giê-su.
2) ĐIỀU KIỆN ĐỂ TÌM GẶP
ĐƯỢC CHÚA :
- Muốn tìm thấy Chúa đòi phải hy
sinh : Các đạo sĩ đã phải rời khỏi
nhà, sẵn sàng đón nhận bất ngờ trong cuộc
sống : Họ nghĩ Đấng Cứu Thế phải
là con của nhà vua, phải sinh ra tại kinh thành
hoa lệ, nên họ đã đến thủ đô
Giê-ru-sa-lem rồi vào hoàng cung hỏi : “Vua Do thái
mới sinh hiện ở đâu ?” Nhưng Hài
Nhi Cứu Thế lại không sinh ở nơi giàu
sang, mà tại hang chiên bò hôi tanh, trong hình hài một
trẻ thơ mới sinh yếu đuối « bọc
trong tã và nằm trong máng cỏ » nghèo hèn.
- Muốn tìm thấy Chúa đòi phải dấn
thân đi tìm : Các Thượng tế và kinh sư
biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế
là thành Bê-lem, nhưng lại không đi tìm, đang
khi các đạo sĩ dù chỉ suy đóan mơ
hồ, nhưng họ lại quyết tâm lên đường
tìm kiếm, nên cuối cùng họ đã gặp
được Hài Nhi Cứu Thế.
- Muốn đi tìm Chúa cần phải chuẩn
bị hành trang : Khi đi tìm Chúa, các đạo
sĩ đã chuẩn bị lễ vật mang theo là các
đặc sản của quê hương như : vàng,
nhũ hương và mộc dược làm lễ
vật dâng tiến Hài Nhi. Những lễ vật này
chỉ là những biểu hiệu của lễ vật
thiêng liêng là đức Tin, đức Cậy và
đức Mến. Khi dâng vàng, các đạo sĩ
cũng tuyên xưng vương quyền của Hài Nhi Giê-su.
Dâng nhũ hương, các ngài nhận Hài Nhi là
tư tế của Giao Ước Mới; Dâng mộc
dược là các ngài đề cao mầu nhiệm
Tử Nạn và Phục Sinh của Đấng
Thiên Sai sau này.
- Gặp được Chúa thực
sự sẽ giúp biến đổi nên người mới
: Sau khi gặp Chúa, các đạo sĩ đã nghe lời
sứ thần mộng báo, để không quay lại với
vua Hê-rô-đê độc ác, nhưng đã chọn
đi đường khác trở về quê hương
mình. Đây cũng là bài học cho chúng ta
: Một khi đã gặp được Chúa
là nguồn Chân Thiện Mỹ, chúng ta sẽ dứt
khoát với tội lỗi gian ác, để quyết
tâm đi theo đường tin yêu là khiêm tốn phục
vụ Chúa nơi tha nhân, nhất là nơi những người
nghèo hèn.
3) SỨ MẠNG
TRỞ THÀNH ÁNH SÁNG DẪN ĐƯỜNG CHO THA NHÂN :
Trong cuộc sống đời
thường, có nhiều điều như ánh sao dẫn chúng
ta đến với Chúa. Có thể là :
– Một câu Lời Chúa trong
kinh thánh đánh động lòng ta.
– Một bài giảng hay trong
thánh lễ thuyết phục ta.
– Một lời khuyên chân
tình của người trên nhắc nhở ta.
– Một gương sáng khiến
ta xúc động quyết tâm noi theo.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II
trong Giáo lý Năm Thánh 2000 cũng viết : “Việc giáo dân
tham dự và cùng có trách nhiệm trong cộng đồng Kitô
hữu, cùng với nhiều hình thức tông đồ và phục
vụ của họ trong xã hội, khiến chúng ta có lý mà
hy vọng rằng, vào buổi bình minh của thiên niên kỷ
thứ ba, sẽ có một cuộc “hiển linh” trọn vẹn
và tốt đẹp nơi thành phần giáo dân”.
4) THỰC THI SỨ MẠNG LÀM ÁNH SAO DẪN
ĐƯỜNG CHO LƯƠNG DÂN :
Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời,
nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một
vì sao lạ soi dẫn giúp mọi người đến với
Chúa.
- Ngôi sao cần phải chiếu sáng : Ngôi
sao chỉ chiếu sáng khi bản thân nó có ánh sáng. Người
Ki-tô hữu cũng chỉ chiếu sáng khi cuộc sống
của họ có ánh sáng, phản chiếu ánh sáng đón nhận
từ ơn Chúa ban và từ việc thực hành Lời Chúa
trong Thánh Kinh.
- Phải chiếu ánh sáng lạ là hành động
tin yêu : Tin kính Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân. Tin
yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình
người. Tin yêu để sẵn sàng tha thứ hoà giải.
Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối của
chia rẽ thù hận, bất hoà bè phái. Tin yêu là ánh sáng ấm
áp làm cho thế giới trở nên gần gũi nhau, con người
trở nên thân thiện với nhau, cuộc đời trở
thành đáng yêu đáng sống hơn.
- Phải chiếu ánh sáng công bình, bác ái thể
hiện sự thánh thiện thực sự : Tin Chúa được
biểu lộ bằng sự tôn trọng lối sống công
bình trong cuộc sống. Yêu Chúa còn phải thể hiện
qua lối sống bác ái yêu thương tha nhân cụ thể.
Tất cả những làn ánh sáng công bình bác ái nói trên sẽ
trở thành lòng đạo đức thánh thiện thực
sự. Một người chỉ mong tìm kiếm vật chất
tiền bạc sẽ luôn sống trong bóng tối tuyệt
vọng. Chỉ có ánh sáng của sự thánh thiện thực
sự mới đủ sức phá tan bóng tối tội lỗi
và làm cho thế giới ngày một chan hòa hạnh phúc bình
an.
- Phải chiếu ánh sáng lạ là niềm
hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa : Niềm
hy vọng một “Trời Mới Đất Mới” cho ta
thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội ngày một
tốt hơn. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên
đàng đời sau giúp chúng ta ý thức về giá trị
giới hạn của cải vật chất đời này,
để luôn tin cậy vào ơn cứu độ của
Chúa như lời Chúa phán : “Trước hết hãy tìm kiếm
Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người.
Còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
4. THẢO LUẬN :
1) Ngày nay bạn có thấy Chúa tiếp tục
tỏ mình ra nơi những người lương
hay không ? 2) Bạn sẽ làm gì để trở
thành ngôi sao lạ dẫn đường cho các
bạn bè lương dân tin nhận Chúa và đi
theo Người ?
5. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Biết bao lần chúng con
đến nhà thờ nhưng đã không gặp
được Chúa. Đạo con giữ mới
chỉ gồm các thói quen đạo đức; Lễ
con dâng chỉ là những lời kinh nhàm chán;
Của cải con cho người nghèo chỉ là
những thứ đồ hư vất bỏ… Nhưng
con lại tưởng mình đang đạo đức
thánh thiện và làm chứng cho Chúa. Ước
gì hôm nay con nhận ra những thiếu sót của
mình, để của lễ con dâng phải là thứ
vàng đức tin quý giá, là nhũ hương
của đức cậy khiêm nhu, là mộc dược
của lòng hy sinh mến Chúa nồng nàn. Hy vọng
Chúa sẽ vui nhận, và ban muôn hồng ân cho chúng
con. Để khi gặp được Chúa, như
các vị đạo sĩ xưa, chúng con sẽ
tránh xa những thói gian ác lọc lừa,
sẵn sàng làm theo Lời Chúa dạy, luôn sống
hiệp nhất xin vâng và phục vụ, để sau
này được về quê trời hưởng
hạnh phúc đời đời với Chúa.- AMEN.
LM ĐAN VINH -
HHTM
|