PHÚC ÂM CHÚA NHẬT 6
PHỤC SINH NĂM A
Ga 14,15-21 (
Lm. Cao Sieu, SJ)
1. Đức Giêsu
nói những lời trong bài Tin Mừng này khi nào? ở đâu?
với ai?
Dựa
theo Tin Mừng Thứ Tư, Đức Giêsu nói những lời
ở Ga 14,15-21 với các môn đệ, sau khi Ngài rửa chân
cho các ông (Ga 13) trong căn phòng dùng để ăn lễ Vượt
Qua, trước khi Ngài bước vào cuộc Khổ Nạn.
Đây được coi như những lời tạ từ
của Đức Giêsu cho các môn đệ khi biết mình sắp
về với Cha.
2. Bài Tin Mừng
này nằm trong bài giảng dài nào của Đức Giêsu? Mục
đích của bài giảng dài này là gì?
Bài Tin Mừng
hôm nay (Ga 14,15-21) nằm trong bài giảng dài của Đức
Giêsu sau khi rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,31 – 16,33). Bài
giảng dài này là những lời cuối, lời trối lại
của Đức Giêsu trước khi về với Chúa Cha
qua cái chết trên thập giá. Bài Giảng dài này có nhiều
mục đích: báo cho các môn đệ biết Ngài sắp
đi về với Cha để họ khỏi xao xuyến,
nhưng rồi Ngài sẽ trở lại; báo cho họ về
Đấng Bảo Trợ sắp được sai đến
để giúp họ; nhắc nhở họ phải yêu thương
nhau và phải gắn bó với Thầy như cành nho với
cây nho, và cuối cùng về những thử thách sắp xảy
đến cho họ. Nói chung, qua Bài Giảng dài này, Đức
Giêsu muốn gửi gắm những điều tâm huyết
của một vị Thầy khi phải chia tay các môn sinh
yêu quý.
3. Đọc Ga
14,15-24. Hãy tìm những câu cho thấy: “ai yêu mến Thầy
Giêsu thì tuân giữ lời của Thầy.” Vậy yêu mến
Thầy Giêsu có phải là một cảm xúc hay một tình cảm
suông không?
Ý tưởng
“Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”
được nhắc lại ba lần trong đoạn
Tin Mừng hôm nay.
Ga 14,15 “Nếu
anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều
răn của Thầy.”
Ga 14,21
“Ai có các điều răn của Thầy và giữ chúng, kẻ
ấy là người yêu mến Thầy.”
Ga 14,23-24
“Nếu ai yêu mến Thầy, người ấy sẽ giữ
lời của Thầy… Kẻ không yêu mến Thầy thì
không giữ các lời của Thầy…”
Yêu mến
Thầy đòi phải giữ lời hay giữ điều
răn của Thầy. Ngược lại, giữ các
điều răn của Thầy là dấu chỉ của
lòng yêu mến Thầy. Như vậy yêu mến ở đây
không phải là một cảm xúc hay tình cảm suông mà là một
thái độ được diễn tả trong cuộc sống,
qua những hành động cụ thể. Giữ lời
hay giữ điều răn của Thầy đòi hỏi
nhiều hy sinh từ bỏ. Chính Thầy Giêsu đã làm gương
cho chúng ta, chính Thầy đã giữ điều răn của
Cha Thầy (Ga 15,10) và làm như Cha đã truyền lệnh
cho Thầy (Ga 14,31). Vì vâng phục lệnh truyền của
Cha mà Đức Giêsu đã đón nhận cái chết.
4. Đọc Ga
14,16. Bạn có thấy Ba Ngôi Thiên Chúa trong câu này không? Qua câu
này bạn có thấy Ba Ngôi dành tình thương cho các môn
đệ không? Đấng Bảo Trợ đầu tiên là
ai? Đọc 1 Ga 2,1.
Trong Ga
14,16 ta thấy nhắc đến sự hiện diện của
Ba Ngôi Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần. Thánh Thần ở
đây được gọi là Đấng Bảo Trợ
khác (Paraklêtos, xem Ga 14,26) để phân biệt với Đức
Giêsu được coi là Đấng Bảo Trợ đầu
tiên (1 Ga 2,1). Chúa Thánh Thần (= Đấng Bảo Trợ)
là quà tặng của Chúa Cha cho các môn đệ, qua lời cầu
xin của Chúa Con. Như thế chúng ta thấy rõ tình yêu của
Chúa Cha đối với loài người. Cha đã ban Người
Con Một của Cha cho thế gian (Ga 3,16). Khi Người
Con ấy về với Cha sau khi đã hoàn thành sứ mạng
cứu độ, Cha lại ban Thánh Thần, một Đấng
Bảo Trợ mới, cho nhân loại (Ga 14,16). Nói chung, cả
Ba Ngôi Thiên Chúa đều yêu thương, và đều hướng
đến loài người, cùng nhau cộng tác trong một
chương trình cứu độ nhân loại.
5. Tìm ba giới
từ trong Ga 14,16-17 được dùng để diễn
tả việc Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ
ở lại với các môn đệ.
Sự hiện
diện của Đấng Bảo Trợ được mô
tả trong Ga 14,16-17. “Đấng Bảo Trợ sẽ ở
với (meta) anh em mãi mãi” (Ga 14,16). Trong Ga 14,17 Đấng
Bảo Trợ còn được gọi là Thần Khí sự
thật. Thần Khí này “ở bên (para) anh em và sẽ ở
trong (en) anh em” (Ga 14,17). Ba giới từ khác nhau này: ở
với, ở bên, và ở trong cho thấy tương quan
khăng khít giữa Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần
với các người tín hữu. Tương quan này cũng
khăng khít như tương quan giữa Đức Giêsu với
các môn đệ: “anh em ở trong Thầy và Thầy ở
trong anh em” (Ga 14,20). Như thế, người kitô hữu
luôn có sự đỡ nâng của hai Đấng Bảo Trợ
là Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Cả hai Đấng ấy ở
trong người kitô hữu.
6. Đọc Ga
14,18. Đức Giêsu không để các môn đệ mồ
côi bằng cách nào? Đức Giêsu đến với các
môn đệ khi nào?
Đức
Giêsu không để các môn đệ mồ côi khi Ngài bỏ
họ mà về với Cha, vì Ngài đã xin Cha sai đến
cho họ một Đấng Bảo Trợ khác để ở
với, ở bên, và ở trong họ. Nhiều lần Ngài
nói: Ngài “đến với anh em” (Ga 14,18). Quả thực Ngài
đã “đến” với họ vào ngày Ngài được
phục sinh (Ga 20,19.26), ngày “anh em sẽ được thấy
Thầy” trong tư cách Đấng đang sống (Ga 14,19).
7. Đọc Ga
14,20. Ngày đó là ngày nào? Tại sao ngày đó lại làm
chúng ta nhận biết tương quan giữa Đức
Giêsu với Chúa Cha và tương quan giữa chúng ta với
Đức Giêsu?
“Ngày
đó” (Ga 14,20) chính là ngày Đức Giêsu được phục
sinh. Khi Đức Giêsu được Chúa Cha phục sinh, một
biến cố chưa từng bao giờ xảy ra, các môn
đệ thấy rõ Thầy mình là người gắn bó
đặc biệt với Chúa Cha và ở trong Chúa Cha. Đồng
thời họ cũng biết rằng, từ nay họ sẽ
gắn bó đặc biệt với vị Thầy này: họ
sẽ sống bằng sự sống mới của Thầy
(Ga 14,19; x. Gl 2,20). Thầy và trò sẽ ở trong nhau (Ga
14,20).
8. Đọc Ga
14,21. Đức Giêsu có nói câu này với từng người
tín hữu hôm nay không? Khi giữ các điều răn của
Đức Giêsu, tôi được gì?
Câu Ga
14,21 có thể được coi là câu Đức Giêsu nói với
từng người chúng ta hôm nay. Ngài khuyên chúng ta giữ các
điều răn của Ngài, đó là điều răn yêu
thương nhau như sẽ thấy trong Ga 15,12. Giữ
điều răn yêu thương nhau là cách diễn tả
tình yêu đối với chính Đức Giêsu. Lập tức
một tương quan tam giác xuất hiện: Cha Thầy sẽ
yêu mến người nào yêu mến Thầy. Và chính Thầy
sẽ yêu mến người ấy và tỏ mình cho người
ấy. Như vậy, đời sống thiêng liêng bắt
đầu bằng yêu thương và kết thúc bằng yêu
thương.
GỢI Ý SUY NIỆM: Đọc Ga
14,15-23. Hãy suy nghĩ về sự hiện diện của
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong đời sống của
một kitô hữu. Bạn có thấy đời sống mới
của người kitô hữu là đời sống ở
lại trong Ba Ngôi không?
|