LỄ KÍNH SINH NHẬT ĐỨC TRINH NỮ MARIA – Ngày 08.9
Hằng
năm, vào ngày 8 tháng 9, Hội Thánh Công giáo và Chính thống giáo mừng
kính sinh nhật của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là một trong 20 lễ kính Đức
Mẹ trong lịch phụng vụ Rôma. Các sách Tân Ước không hề nói gì về nơi
chốn cũng như ngày tháng Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, đã sinh ra. Tân Ước
cũng không nói đến cha mẹ Đức Maria là ai, tên gì, và hoàn cảnh cuộc
sinh hạ. Lịch sửTừ
đầu thế kỷ thứ 5, người ta đã tôn kính, gần bên hồ nước Bêt-da-tha phía
bắc Giêrusalem nơi Đức Giêsu đã chữa lành một người bất toại (Ga 5,
1-18), là nơi Đức Maria đã sinh hạ, vì truyền thống đông phương định vị
tại đây ngôi nhà của bà Anna và ông Gioakim, song thân của Đức Maria.
Một ngôi thánh đường đã được xây lên tại đây, thời nữ hoàng Êuđoxia ở
Constantinopolis (375-404), dâng kính Đức Trinh Nữ Maria, được cung hiến
một ngày 8 tháng 9. Hằng năm người ta vẫn mừng kỷ niệm ngày cung hiến
này. Vào thế kỷ thứ 5, lễ này được nới rộng đến Constantinopolis, thủ
đô mới của đế quốc Rôma, thuộc nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Đến cuối thế kỷ
thứ 7, Thánh Giáo Hoàng Sergiô I, một người gốc đông phương (triều đại:
687-701), cho ghi lễ này vào lịch phụng vụ của Giáo Hội Rôma, vào ngày 8
tháng 9, được xem là ngày sinh của Đức Maria. Nhà thờ theo nghi lễ
Byzantinô tại Rôma mừng ngày 8 tháng 9 như lễ sinh nhật Đức Mẹ. Sau này,
người ta sẽ thiết lập thêm lễ kính việc Thụ Thai của Đức Maria,
9 tháng trước, nghĩa là ngày 8 tháng 12. Vào thời Trung Cổ, lễ kính
Sinh nhật Đức Mẹ được mừng kính rất trọng thể, với tuần bát nhật. Nhà
thờ thánh Anna tại Giêrusalem bị quân Ba tư phá hủy năm 614, được tái
thiết năm 1009. Ngôi nhà thờ hiện nay đã được thập tự quân xây năm 1140,
được nâng lên hàng vương cung thánh đường và được dâng kính thánh nữ
Anna, để nhắc nhớ cuộc sinh hạ Đức Maria tại đó. Sau khi thập tự quân
bại trận và vua hồi giáo là Saladin chinh phục Giêrusalem, năm 1192 nhà
thờ biến thành trường dạy luật hồi giáo (kinh Koran), sau đó bị bỏ phế
qua nhiều thế kỷ. Từ năm 1856, để tỏ lòng biết ơn hoàng đế Napoleon III
nước Pháp là người đã giúp ông về mặt chính trị chống lại nước Nga, vua
Thổ Nhĩ Kỳ tặng thánh đường và mảnh đất này cho chính phủ Pháp. Vì thế,
cho đến ngày nay, vương cung thánh đường Thánh Anna vẫn là lãnh thổ của
Pháp. 
Theo
một sách Tin Mừng ngụy thư, nghĩa là không được Giáo Hội chính thức
nhìn nhận là Thánh Kinh, sách Tin Mừng tiên khởi (protévangile) của
Giacôbê (được gán cho Giacôbê người Công chính, anh em của Đức Giêsu,
được biên soạn vào hậu bán thế kỷ thứ 2, sách này ban đầu mang tựa đề
là Cuộc Sinh hạ Đức Maria), cha
mẹ của Đức Maria tên là Gioakim và Anna. Bà Anna son sẻ. Ông Gioakim
buồn phiền, không muốn tái xuất hiện trước mặt vợ, lui vào sa mạc ăn
chay 40 ngày. Một thiên thần đến với bà Anna và loan báo bà sẽ có một
người con; sau đó thiên thần cũng hiện đến với ông Gioakim và loan báo
cùng một tin vui. Như thế, cuộc sinh hạ của Đức Maria được trình bày như
một phép lạ (Xem sách Tin Mừng tiên khởi chương 1 đến 5). Theo một ngụy
thư khác, mang tựa đề là Tin Mừng về cuộc sinh hạ Đức Maria và thời thơ ấu của Đấng Cứu Thế, ông Gioakim và bà Anna đều thuộc chi tộc Giuđa và thuộc dòng dõi vua Đavít. Đức Maria đã sinh ra vào năm nào?Các
tài liệu cổ xưa không cho ta biết gì về thời gian sinh hạ Đức Maria.
Tuy nhiên chúng ta cũng có thể suy đoán phỏng chừng. Khi Đức Giêsu chào
đời, có lẽ Đức Maria khoảng 15 tuổi. Phong tục người Do thái thời đó
muốn các thiếu nữ kết hôn không lâu sau tuổi dậy thì, sau thời gian đính
hôn. Vậy nếu có thể xác định năm sinh của Đức Giêsu, thì chỉ cần trừ đi
15 năm là phỏng đoán tuổi của người mẹ. Vậy Đức Giêsu đã giáng sinh năm
nào? Tin Mừng cho biết Đấng Cứu Thế đã chào đời khi vua Hêrôđê còn sống
và trị vì tại Giêrusalem. Ông đã chết năm 4 trước công nguyên. Như vậy,
Đức Giêsu đã giáng sinh vào khoảng năm 6 hay 7 trước công nguyên. Cùng
một trật, chúng ta có thể kết luận Đức Maria có lẽ đã chào đời khoảng
năm 20 trước công nguyên. Chúng ta cũng được biết, 20 năm trước công
nguyên, vua Hêrôđê khởi đầu công trình vĩ đại tái thiết đền thờ
Giêrusalem với khoảng 11000 công nhân. Công trình này kéo dài đến năm
63, sau công nguyên. Tuy
nhiên Hêrôđê và cả thành Giêrusalem không biết rằng, cách đó không đầy
100 mét về phía bắc, một đền thờ khác được âm thầm xây dựng. Một trẻ thơ
vừa chào đời, đặt tên là Maria, trong nhà ông Gioakim và bà Anna. Đức
Maria là ngôi đền thờ sẽ mang trong mình vua cả trời đất, như Hòm Bia
Thiên Chúa, còn cao trọng hơn bội phần đền thờ của Hêrôđê, mà sẽ bị
tướng Titus và quân Rôma phá hủy năm 70 sau công nguyên, 7 năm sau khi
hoàn thành. Tên đặt cho đứa trẻTrẻ
nam được đặt tên vào ngày chịu phép cắt bì, 8 ngày sau khi sinh, còn
trẻ nữ được đặt tên vào bất kỳ ngày nào trong vòng 30 ngày sau khi sinh.
Đứa trẻ được tiền định này nhận tên là Maria. Không có chút nghi ngờ gì
về điều này. Đức Maria được gọi như thế trong Tin Mừng thánh Mat-thêu
(5 lần), thánh Mác-cô (1 lần) và nhất là thánh Luca (13 lần), thánh
Gioan (2 lần). Vào thời đó, người ta đọc là Mariam (tiếng Aram), chứ
không phải là Myriam, khi người ta còn nói tiếng hip-ri. Tên này khá
thông thường nơi người Do thái, như ta thấy trong các sách Tin Mừng, như
Maria Magđala, Maria Bêtania, em của Martha, Maria mẹ của Giacôbê và
Maria mẹ của Gioan Mác-cô. Người
ta vẫn chưa rõ từ nguyên (gốc) của tên này. Từ nguyên bình dân thường
được chấp nhận ngày nay là “Bà chủ”, “Công Chúa” hay “Bà” (Dame, Lady).
Như vậy Đức Maria chính là “Đức Bà” (Notre-Dame, Our Lady), như chúng ta
thường gọi. Có lẽ tên Maria, cũng như Martha, xuất phát từ tiếng Aram
“Mara”, có nghỉa là “Chúa”, như trong thuật ngữ “Maranatha” (xem 1 Cr
16, 22; Kh 22, 20). Suy niệm- Ở
thế kỷ thứ 8, thánh Gioan thành Damas, Syrie (676-749), một linh mục
đan sĩ có những bài giảng tuyệt vời ca ngợi Đức Maria, ngài cử hành lễ
sinh nhật Đức Mẹ trong vương cung thánh đường kính tước hiệu này với
những lời lẽ như sau: “Tất
cả các dân tộc, hãy đến, hãy đến, hỡi những người thuộc mọi chủng tộc,
mọi ngôn ngữ, mọi tuổi tác và mọi phẩm vị. Chúng ta hãy hân hoan mừng
kính cuộc sinh hạ của Đấng mà hôm nay là niềm hoan lạc cho toàn thế
giới. Hôm nay là khởi đầu ơn cứu rỗi cho thế giới”. Những lời này được phụng vụ theo nghi lễ byzăngtin lấy lại một phần khi công bố vào dịp này: “Ngày hôm nay là khúc dạo đầu của niềm vui cho toàn thế giới. Ngày hôm nay, các luồng gió loan báo ơn cứu độ đã bắt đầu thổi”.
Vậy chúng ta phải dâng lời ca tụng nào lên Mẹ của Lời, nếu không phải
là lời nói của chúng ta! Chớ gì toàn thể tạo thành hãy vui mừng hân
hoan, tất cả hãy ca khen cuộc hạ sinh của một người nữ thánh!
- Maria
vừa chào đời. Sau một đêm đen dài đằng đẵng, nghĩa là ròng rã suốt bao
nhiêu thế kỷ, bình minh đã ló dạng và sau đó là buổi rạng đông rực rỡ,
rạng đông của ngày cứu độ. Một con én không làm nên mùa xuân nhưng là
dấu hiệu báo trước mùa xuân đang đến. Tựa như cầu vồng giữa đám mây sau
một trận mưa lớn, chưa phải là bầu trời trong xanh và ngày chói chang
ánh sáng, tuy nhiên, nó làm chứng rằng cơn giận của Thiên Chúa đã nguôi,
cuộc hòa giải chắc chắn sẽ được thực hiện, hòa bình trở lại. Phải,
những cơn mưa đã chấm dứt, mùa đông của những hình phạt đã qua đi, hoa
sẽ lại nở rộ trên mặt đất chúng ta…
- Rạng
đông không phải là mặt trời nhưng đến trước mặt trời và bảo đảm chắc
chắn mặt trời sẽ mọc lên sáng chói. Chỉ một mình Đức Giêsu là Mặt Trời
công chính, như Vầng Đông từ trên cao sẽ xuất hiện để “soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tử thần” (Lc 1, 79). Nhưng Đức Maria, khi chào đời, cũng “xuất hiện như rạng đông”,
theo lời sách Diễm Ca (6, 10). Mẹ đi trước và chuẩn bị cho Đấng là sự
sống và ánh sáng chiếu soi loài người sẽ đến, và chính Mẹ cũng được chan
hòa ánh sáng đó và rọi chiếu trên chúng ta.
- Trong lời nguyện hiệp lễ lễ sinh nhật Đức Mẹ, Hội Thánh cũng cầu nguyện: “Xin
cho chúng con cũng tìm được niềm vui trong ngày mừng sinh nhật Ðức
Trinh Nữ Ma-ri-a. Chính Người đã đem đến cho nhân loại niềm hy vọng và
ơn cứu độ là Ðức Giêsu Kitô, Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời”.

Đức Maria chào đời đem lại niềm vui cho toàn thể nhân loại
- Khi
một trẻ thơ sinh ra trong một gia đình, toàn thể gia đình vui mừng. Khi
Đức Maria chào đời, ngài đem lại niềm vui cho toàn thể nhân loại bởi vì
ngài là hừng đông của ngày cứu độ. Đức Maria là bà Evà mới. Bà Evà đã
nói không với kế hoạch của Thiên Chúa còn Đức Maria đã thưa vâng, và Mẹ
là niềm hy vọng tuyệt vời cho tất cả chúng ta. Nhờ sự vâng phục của Mẹ,
ơn cứu độ đã đến cho mọi người, và
cùng với ơn cứu độ là niềm vui bao la. Vậy, nếu tại các nước còn theo
nền quân chủ, người ta mừng sinh nhật của các vua hay nữ hoàng, thì phần
chúng ta phải làm gì để mừng kính sinh nhật của Mẹ Thiên Chúa, nhờ Mẹ
mà nhân loại được đổi mới, nhờ Mẹ mà hình phạt bà Evà biến thành niềm
vui và cũng nhờ Mẹ mà ngày hôm nay chúng ta được thừa hưởng phúc lành?
- Khi
mừng kính lễ sinh nhật Đức Mẹ, Hội Thánh liên tưởng đến niềm hy vọng
bao la của biết bao bà mẹ trong suốt thời kỳ thai nghén. Phải, trái tim
bé bỏng bắt đầu đập là dấu chỉ của lòng từ ái của Thiên Chúa. Chính
Ngài, là Chúa tể trời đất, là Đấng đã lập trình như thế chứ không phải
các bà mẹ. Ai có thể khiến cho tình yêu sẽ ngự trị trong cuộc sống của
thai nhi bé nhỏ này mà trái tim là biểu tượng? Nhân ngày lễ sinh nhật
Đức Mẹ, chúng ta nghĩ đến tất cả những nỗi lo âu, những niềm hy vọng,
những lời cầu nguyện của tất cả các bà mẹ đang chờ sinh con và phó thác
nơi Đức Maria. Chúng ta cũng muốn chung vui với các bà mẹ trẻ, lần đầu
tiên được ôm con trên đôi cánh tay, và niềm vui của các người cha được
nhìn ngắm hoa trái tình yêu của họ.
- Sau
hết, nhân dịp mừng lễ sinh nhật của Đức Mẹ, thật là một điều tốt đẹp và
bổ ích nếu mỗi người chúng ta nhớ lại trong tâm trí rạng đông sáng ngời
của những buổi đầu, khi chúng ta mới bước chân vào đời…Đồng thời, khi
nhìn lại, dưới ánh sáng của Tin Mừng, mọi yếu đuối, thất vọng hay tội
lỗi của mình, chúng ta cũng nên để cho Chúa thanh tẩy đời sống chúng ta.
Chúng ta có thể cầu xin cùng Đức Trinh Nữ Maria, người Mẹ hoàn toàn
tinh tuyền, giúp chúng ta tìm lại niềm phấn khởi ban đầu hầu có sức khắc
phục những yếu đuối của ngày hôm nay, ngày mai và mãi mãi.
|