Mẹ Maria, Đấng duy nhất
được hưởng ơn Tiền Cứu Rỗi
(4)
(Tiếp theo)
5.
Cuộc sống Mẹ Maria được hoàn tất trong
ơn phục sinh
Về
phương diện lịch sử, người ta không thể
có được những chứng cứ chắc chắn
về nơi chốn, về thời gian và về cách thức
Mẹ Thiên Chúa đã qua đời như thế nào. Nhưng về phương diện thần
học thì chỗ đề cập cuối cùng về Mẹ
Maria trong Tân Ước mang một ý nghĩa quan trọng, vì
đã nói cho chúng ta biết được Mẹ Thiên Chúa
đã cùng với các Môn Đệ, Giáo Hội tiên khởi bé
nhỏ của Chúa, chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự
xuống như thế nào. Sách Tông Đồ Công Vụ viết:
„Tất cả các ông đều đồng tâm nhất
trí, chuyên cần cầu nguyện với mấy người
phụ nữ, với bà Maria, thân mẫu Đức Giêsu và
các anh em của Đức Giêsu“ (Cv
1,14).
Sự xác tín
cho rằng cái chết của Mẹ Thiên Chúa mang một ý
nghĩa mặc khải về đức tin, chắc chắn
được xuất phát từ nội dung những phát
biểu tổng quát của Kinh Thánh về số phận những
người đã quá cố, chẳng hạn: „Vì nếu
chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống
lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người
đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được
Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu“ (1Tx 4,14).
Ơn
được trở nên giống Đức Giêsu,
được trở nên đồng hình đồng dạng
với Người qua cái chết và sự sống lại
(x. Pl 3,11tt; Ep 2,5; Cl 3,3) và được chiêm ngắm Thiên
Chúa nhãn tiền, – nghĩa là „Người thế nào chúng
ta sẽ thấy người như vậy“ (x. 1Cr 13,12;
1Ga 3,2) –, được gói ghém trọn vẹn trong tín
điều về sự đồng trinh sạch sẽ và
thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa của Mẹ Maria, cũng
như với sự nhận thức được rằng
Mẹ Maria được liên kết chặt chẽ một
cách đặc biệt với công cuộc cứu chuộc
của Chúa Kitô, đã dẫn tới sự nhận thức
thần học này, đó là:
· Mẹ Maria, với tư cách là một
con người, một thành phần thực sự của
gia đình nhân loại, đã hoàn tất cuộc lữ hành
dương thế của mình một cách trọn vẹn và
toàn diện trong vinh quang Thiên Chúa, tức Mẹ Maria đã
được lên trời cả hồn lẫn xác.
·
Những gì Thiên Chúa đã
cho xảy ra và ghi dấu trên cuộc đời Mẹ
Maria, vì Mẹ đã tự nguyện chấp nhận sự
an bài của Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ thực
hiện như thế trên cuộc sống của những
ai tin tưởng và tín thác vào sự an bài đầy yêu
thương của Người(1).
Ngay từ
đầu, sự xác tín đức tin về biến cố
Mẹ Maria được lên trời cả hồn lẫn
xác đã được gắn liền với lòng trông cậy
vào sự bầu cử của Mẹ trước tòa Chúa
Giêsu, Con Mẹ, vì Mẹ là Đấng Trung Gian giữa Chúa
Giêsu và con cái loài người và Mẹ hằng nâng đỡ
và trợ giúp Giáo Hội đang trên đường lữ
thứ trần gian được đạt tới sự
kết hiệp muôn đời với Chúa Kitô trong vinh quang
Nước Trời.
Ở Tây
phương, qua phái Kinh Viện(2), sự xác tín cho rằng
thân xác Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã cưu mang Logos,
đã cưu mang Ngôi Lời Thiên Chúa, thì nói chung, dù phải
trải qua sự chết, cũng không thể chịu cảnh
hư nát do Nguyên tội gây nên được (Thomas Aquinô).
Trong khi bác bỏ những lý thuyết cho rằng trước
khi chết, Mẹ Maria đã được cất về
trời, đa số các nhà thần học xác tín rằng Mẹ
Maria đã chết một cách tự nhiên. Nhưng
cái chết của Mẹ Maria cũng tương tự
như một giấc ngủ ngắn trong giây lát, vì ngay liền
sau khi chết, Mẹ lại sống lại và được
rước về Thiên đàng cả hồn lẫn xác.
Bởi vì, sự chết không chỉ là hậu
quả của Nguyên tội, nhưng còn là một thực tại
nhân chủng học đã được gắn liền với
bản tính tự nhiên của con người. Chính thực
tại ấy, tức sự chết, chuyển đổi
sự tự do sau cùng của con người vào trong hình thức
hoàn hảo nhất của nó, đó là sự chiêm ngưỡng
đời đời thánh nhan Thiên Chúa.
Trong phạm
vi triết học nghi vấn về linh hồn-thể xác
được đặt ra là làm thế nào với những
phương tiện thực nghiệm người ta lại
có thể hiểu và nắm bắt được một
thực tại vượt khỏi các phạm trù hiểu
biết của trí năng tự nhiên của con người,
tức sự hoàn tất cuộc sống trong vinh quang bất
diệt một cách toàn diện và trọn vẹn. Đồng thời người ta cũng nêu lên
nghi vấn về số phận của thi thể Mẹ
Maria trong bối cảnh ngày thế mạt một cách tổng
quát. Trong khi đó, tính cách đồng nhất giữa
thân xác trần thế của Chúa Giêsu (khi còn sống) và thân
xác đã được biến đổi nên sáng láng của
Người (sau khi sống lại) đã quá rõ ràng và không cần
phải đặt thành nghi vấn nữa, bởi vì qua dữ
kiện mặc khải về sự Phục Sinh của
Chúa Giêsu, Chúa Cha đã biểu lộ sự đồng nhất
giữa Chúa Giêsu phục sinh và Chúa Giêsu khi còn tại thế,
khi Người hiện ra với các Môn đệ sau khi
Người đã sống lại từ cõi chết với
chính thân xác của Người.
Còn tính cách
đặc biệt về sự hoàn tất trọn vẹn
và toàn diện – gồm cả hồn lẫn xác – của cuộc
sống Mẹ Maria trong vinh quang chân thật và vĩnh cửu
của Nước Trời, tất nhiên không thể
được hiểu là do tự sức riêng của Mẹ,
nhưng là do sự liên kết chặt chẽ có một
không hai giữa cuộc sống của Mẹ
và Chúa Cứu Thế và công trình cứu độ phổ
quát của Con Mẹ.
Sự tuyên tín
bày tỏ đức tin mang tính cách quyết định của
„Assumpa-Dogma“, của tín điều „Đức Mẹ
Hồn Xác Lên Trời“, được diễn tiến
như sau: Bởi vì, Mẹ Maria liên kết và gắn bó với
công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu một cách chặt
chẽ hoàn toàn ngoại thường, nên Mẹ cũng
được tham phần vào sự phục sinh vinh hiển
của Con Mẹ như một người được
tiền cứu rỗi và được cứu rỗi một
cách trọn vẹn. Vì thế, Mẹ Maria là kiểu
mẫu về sự quy phục toàn diện của con
người đối với Thiên Chúa, Đấng Tạo
Hóa và là Đấng hoàn tất mọi sự. Sự
khác biệt giữa Mẹ Maria và các Thánh khác là ở chỗ:
· với sự tương quan sâu nhiệm
và chặt chẽ với công cuộc cứu độ của
chính Con Mẹ, Mẹ Maria là người được cứu
rỗi mang tính cách gương mẫu hay tượng
trưng cho nhân loại, nghĩa là mọi con cái loài người
cũng sẽ được cứu rỗi như Mẹ;
·
về sự hoàn tất
trong vinh quang của tất cả các tín hữu trong ngày
quang lâm của Chúa Giêsu, thì lời bầu cử của Mẹ
Maria mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Mẹ Maria là
hình ảnh nguyên thủy của Giáo Hội và, do thiên chức
làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Maria là một chi thể quan trọng
nhất trong Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Kitô. Do đó, thánh
công đồng Vatican II đã phát biểu: Mẹ Maria
được „Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương Trời
Đất để nên giống Con Một Người một
cách trọn vẹn hơn, là Chúa của các Chúa, Đấng
đã chiến thắng tội lỗi và sự chết“ (LG, số 59).
5.1. Nền tảng Kinh Thánh
Đức tin
vào sự hoàn tất mang tính cách cánh chung
của Mẹ Maria trong vinh quang của Thiên Chúa có thể
không trực tiếp dựa trên những lời của Kinh
Thánh. Nhưng lại được chứng thực bởi
những bằng cứ hàm chứa định tín về
đức tin ấy, như trong trường hợp vô nhiễm
thai của Mẹ Maria. Trước hết,
ở đây cần nêu đích danh sự xác tín về đức
tin, đó là Thiên Chúa „không phải là Thiên Chúa của kẻ
chết, nhưng là của người sống“ (Mc 12,27). Ngoài ra còn những bản văn
quan trọng nói lên sự tương quan nội tại giữa
sự kén chọn, sự ân thưởng
và sự vinh quang của con người trong sự an bài của
ân sủng Thiên Chúa. Trong Thư Roma, thánh Phaolô đã đề
cập đến điều đó một cách rõ ràng: „Những
ai Thiên Chúa đã tiền định…, thì Người
cũng làm cho nên công chính, những ai Người đã làm
cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc
vinh quang“ (Rm 8,30; x. Ep 1,3-6). Sự liên kết với
Đức Kitô của những người tín hữu đạo
hạnh thì sẽ tìm gặp được sự viên mãn
trong hạnh phúc được chiêm ngưỡng Thiên Chúa
nhãn tiền (x. Cl 3,3-4; Ep 2,5). Những
đoạn Kinh Thánh đề cập đến sự liên
kết chặt chẽ của Mẹ Maria với Con Mẹ và
với sứ vụ cứu độ của Người,
đã đóng một vai trò quyết định trong việc
định hướng được rằng đức
tin vào ơn được tuyển chọn và được
sống lại của Kitô giáo trong thời Giáo Hội tiên
khởi, được cụ thể hóa trong con người
của Mẹ Maria (x. Lc 1,45.48). Và trong lời
cầu nguyện của Chúa Cứu Thế cho các Môn đệ
trước khi Người bước vào cuộc khổ
nạn thập giá, tất nhiên Mẹ Maria cũng được
bao hàm trong đó: „Lạy Cha, con muốn rằng con ở
đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở
đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh
quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con“ (Ga 17,24).
Qua những lời
Kinh Thánh trên đây, người ta có thể khẳng định
được rằng sự hoàn tất cuộc đời
dương thế của Mẹ Maria trong vinh quang Nước
Trời một cách trọn vẹn và toàn diện, tức cả
xác lẫn hồn, là một chân lý đức tin.
5.2. Những phát triển trong lịch sử
thần học
Những bằng
chứng đầu tiên, vốn được coi là chứng
tích chắc chắn cho thấy rằng Giáo Hội trong những
thế kỷ đầu đã phát triển đức tin
phục sinh của mình bằng sự tham chiếu đặc
biệt nơi nhân thân Mẹ Maria, thì người ta đã
khám phá ra được ở những nơi các tín hữu
xưng tụng Mẹ Maria là Đấng luôn hiện diện
sống động trong Cộng đoàn Đức Kitô và
kêu cầu Mẹ trong khi cầu nguyện. Cũng
như các chứng nhân tử đạo, Mẹ Thiên Chúa vinh
hiển được tin kính và xưng tụng là Mẹ của
Giáo Hội. Những chứng tích này bắt đầu
xuất hiện từ thế kỷ III, ví dụ trong lời
nguyện ở Alexandria có viết: „dưới sự che chở
phù trì của Mẹ“(3). Còn ở Tây phương, thánh
Augustinô lần đầu tiên đã trực tiếp kêu cầu
sự bầu cử của Mẹ Maria trong khi cầu nguyện(4). Và tiếp đến, vào thế
kỷ IV thì hai thánh Êphräm người Syrie và Gregor thành Nazianz
cũng đã nêu danh Mẹ Maria trong các kinh nguyện như
là Đấng trung gian chuyển cầu trước tòa Chúa
Giêsu.
Trong
việc phát triển này người cũng phải kể
đến vai trò quan trọng của những lễ Đức
Mẹ trong niên lịch Phụng Vụ của Giáo Hội. Ở Giê-ru-sa-lem ngay từ thế kỷ
V các tín hữu đã cử hành Lễ An
Nghỉ (Dormitio) và Lễ An Táng hay Lễ Táng Trong Mồ
(Depositio) của Mẹ Maria. Đặc biệt
vào thế kỷ VI, Lễ Dormitio đã được cử
hành ở khắp cả Đông phương. Còn ở
Tây phương, mãi đến thế kỷ VIII Lễ
Dormitio hay Lễ An Nghỉ của Mẹ Maria mới cử
hành một cách rộng rãi với tên gọi mới là Lễ
„Lên Trời của Đức Trinh Nữ Maria“. Trong các bài giảng khi cử hành Lễ này, trước
hết người ta chỉ nhắc đến cái chết
của Mẹ Thiên Chúa; từ từ về sau người
ta càng ngày càng đề cập tới đến sự
hoàn tất cuộc sống đầy vinh quang của Mẹ
cũng như vai trò trung gian của Mẹ trên Thiên đàng.
Riêng thánh Giám Mục
Epiphanius Salamis (khoảng 315-403) đã công phu nghiên cứu và
tìm kiếm một truyền thống có tính cách Kinh Thánh về
sự hoàn tất cuộc sống trần thế của Mẹ
Maria trong kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội. Nhưng
tiếc thay, ngài đã không tìm thấy. Nhưng qua những
nghiện cứu của thánh Epiphanius(5),
người ta đã khám phá ra rằng hoàn toàn không có bất
cứ một bằng cứ chắc chắn nào về cái
chết của Mẹ Maria cả. Tuy nhiên, công
trình nghiên cứu và tìm hiểu của nhà thần học này
đồng thời cũng cho thấy rằng trong thời
đại của ngài người ta đã suy tư về
sự vinh hiển của Mẹ Maria rồi. Từ thế
kỷ V cho tới thế kỷ VII đã xuất hiện nhiều huyền thoại về
Mẹ Maria – như một loại văn chương đặc
biệt – trình bày hiện tượng Mẹ Maria đã
vượt qua khỏi cái chết và được rước
lên Thiên đàng trong vinh quang vĩnh cửu.
Trong các thời
đại tiếp theo sau đó, các suy
tư thần học đã phát triển mạnh và đã
đạt được nhiều tiến bộ hơn. Vì thế những thêu dệt mang tính cách huyền
thoại về cái chết và sự vinh hiển của Mẹ
Maria bị đẩy lùi vào quá khứ. Thánh Isidor Tổng
Giám Mục Sevilla (560-636) đã nói rằng ngài không biết
gì về các điều kiện và hoàn cảnh có liên quan
đến cái chết của Mẹ Thiên Chúa và ngài còn nêu ra
cả nghi vấn là liệu Mẹ Maria có thực sự chết
hay không(6). Còn thánh Tiến sĩ Giáo Hội Beda Venerabilis
(672-735), một Thầy Dòng Biển Đức, thì tuyên bố
rằng ngài hoàn toàn không biết gì về vấn đề
này(7).
Vào tiền
bán thế kỷ XI xuất hiện một khảo lược
mạo danh thánh Augustinô với tựa đề „De
Assumptione Beatae Mariae Virginis“ – (Về vấn đề lên
trời của Đức Trinh Nữ Maria)(8) được
coi như là tài liệu thần học đầu tiên ở
Tây phương về sự kiện „Đức Mẹ
Lên Trời“. Vì lý do thiếu những chứng tích trực
tiếp và rõ ràng trong các văn bản chính thức và đồng
thời không muốn tham chiếu các ngụy thư cũng
như các huyền thoại, một số tác giả không rõ
danh tính(9) đã cố gắng xác định
một cách có hệ thống theo phương diện thần
học sự vinh hiển của Mẹ Maria dựa vào công
cuộc cứu độ của Chúa Giêsu. Theo lược
khảo này, thì do thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa của ngài,
Mẹ Maria luôn liên kết chặt chẽ với Chúa Giêsu,
Con Mẹ. Và chứng cứ được nêu lên là chính lời
Chúa Cứu Thế đã phán trong Phúc Âm thánh Gioan: „Thầy
ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ
ở đó“ (Ga 12,26). Ngoài ra, tác giả còn cho rằng qua
việc Mẹ Maria được lên trời trong vinh quang
cả hồn lẫn xác, Chúa Giêsu đã chu toàn Điều
Răn Thứ Bốn trong Mười Điều Răn
Thiên Chúa, tức bổn phận làm con của Người
đối với Mẹ Maria. Sau cùng, những lý do trên
đây cũng như những lý do khác đã chứng minh sự
chắc chắn của đức tin được phản
ảnh từ đời sống của Giáo Hội, đó
là: trong sự thông hiệp vĩnh cửu với Chúa Giêsu
trên Thiên quốc, Mẹ Maria luôn bầu cử cho Giáo Hội.
Cũng
như ở Tây phương, ở Đông phương
người ta cũng nỗ lực phát triển mỗi
ngày một rộng rãi hơn quan điểm thần học
về sự hoàn tất cuộc sống của Mẹ Maria
trong vinh quang Nước Trời. Hai nhà thần học nổi
danh được nêu tên trong phong trào phát huy thần học
này ở Đông phương là thánh Gioan thành Đa-mát
(650-754) và Đức Thượng Phụ Germanus von Konstantinopel
(645-740). Đối với hai nhà thần học thời
danh này, thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa là lý do cơ bản
cho sự sống lại và được lên trời của
Mẹ Maria. Vì thế, người ta có thể nói được
rằng công trạng của hai Giáo phụ tài danh này là
đã nối kết được những chân lý đức
tin liên quan đến Mẹ Maria lại với nhau một
cách chặt chẽ, hợp lý và đúng đắn. Các ngài
đã nhìn thấy được sự tham phần của
Mẹ Maria trong công cuộc cứu độ cúa Chúa Kitô ở
dương thế và sự trung gian hay sự bầu cử
của Mẹ trên trời cho sự cứu rỗi của
nhân loại, được đồng nhất thành một.
Như thế, „lý do thần học sâu xa nhất
và đồng thời là nền tảng chắc chắn
trong mặc khải“(10) của tín điều đã
được nêu lên.
Đối với
những triển khai khác của giáo huấn „Vô Nhiễm
Thai“ của Mẹ Maria, thì những ý niệm siêu hình học
được sử dụng trong khoa nhân chủng học
của Kinh Viện đóng một vai trò rất quan trọng.
Đúng vậy, ý niệm về „thân xác“ và „linh hồn“
là tiêu biểu cho một con người duy nhất và toàn diện,
một thực thể hiện hữu vừa về phần
thể xác hữu hình và vừa phần linh hồn thiêng
liêng vô hình. Bởi vì, trong các tạo vật
Thiên Chúa đã dựng nên, thì con người là một thực
thể duy nhất gồm có linh hồn và thân xác. Trong khi đó, các Thiên thần chỉ có linh hồn
thiêng liêng vô hình và ngược lại, các loài vật lại
chỉ có thể xác hữu hình mà thôi.
Do đó, khi mục
đích cuối cùng cuộc lữ hành trần thế của
con người được hoàn tất trong vinh quang bất
diệt một cách trọng vẹn và toàn diện theo nghĩa nhân chủng học, thì tất
nhiên phải hiểu là con người toàn diện gồm
linh hồn và thể xác. Và cụ thể,
đó chính là trường hợp Mẹ Maria, Đấng
đã được lên trời cả hồn lẫn xác
ngay sau khi Mẹ đã hoàn tất cuộc lữ hành trần
thế của mình. Còn tất cả các con cái loài
người khác còn phải chờ đợi cho đến
ngày tận thế, ngày mọi xác phàm sẽ được
sống lại và đoàn tụ lại với linh hồn
để chịu phán xét chung.
Thánh Bonaventura,
vốn chịu ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng
truyền thống của phái triết học Platon, khi bàn về
sự hoàn tất vinh hiển của Mẹ Maria, đã lý luận
rằng: Bởi vì, một khi người ta chết, thì
linh hồn hồn lìa ra khỏi xác, và như vậy không còn
là con người trọn vẹn và thật sự nữa. Nếu thế, thì sự hoàn tất trong vinh quang của
Mẹ Maria cũng chưa thể được hiểu là
trong một chiều kích trọn vẹn và hoàn toàn được.
Nói cách khác, Mẹ Maria chỉ mới được hưởng
vinh quang phần linh hồn mà thôi, nếu như thân xác Mẹ
chưa được sống lại(11).
Và Thánh Thomas Aquinô cũng có suy tư tương tự(12). Theo các nhà thần học phái Kinh Viện
– Bonavventura, Thomas Aquinô, v.v…, – thì Mẹ Maria đã được
rước về Thiên dàng „cả linh hồn lẫn thể
xác“, nghĩa là Mẹ Maria đã được trở về
bên Chúa Giêsu, Con Cực Thánh của Mẹ, một cách trọn
vẹn và toàn diện, chứ hồn-xác Mẹ không bị
phân tách. Điều đó muốn khẳng định rằng
thân xác Mẹ Maria đã được sống lại ngay
sau khi cuộc lữ hành dương thế của Mẹ
chấm dứt và cùng với linh hồn được
rước về Thiên đàng hưởng hạnh phúc bất
diệt bên Chúa Giêsu, Con Mẹ, chứ thân xác Mẹ không phải
chịu cảnh hư nát trong mộ và không phải chờ
đến ngày tận thế mới được sống
lại như tất cả các người khác
_______________________
1. x. A. Ziegenaus, Die
leibliche Aufnahme Mariens in den Himmel im Spannungsfeld heutiger
theologischer Strömungen, trong: Forum Katholische Theologie 1 (1986, 1-19; K.
Rahner, Zum Sinn des Assumpta-Dogmas, trong: ders., Schriften zur Theologie. Bd.
1, Einsiedeln 6. Aufl. 1962, trang 239-252.
2. Phái Kinh Viện kéo
dài từ 1200 đến 1340, gồm các triết gia và thần
học gia thời danh, như: Albertus Magnus, Thomas von Aquin,
Bonaventura, Duns Scotus, William of Ockham, Raimundus Lullus, Roger Bacon,
Siger von Branbant, Meister Eckhart, v.v… Đây là một trường
phái tư tưởng dựa theo khuynh hướng triết
học thực tiển (Realismus) của đại triết
gia Aristote và đồng thời cũng chịu ảnh
hưởng không ít tư tưởng Ả-rập qua các
triết gia Averroes và Avicenne, và tư tưởng Do-thái qua
triết gia Maimonides. Kinh Viện là trường phái tư
tưởng có một ảnh hưởng sâu rộng trong
Giáo Hội, nếu không nói là đồng nhất với
quan điểm của Giáo Hội trong hầu hết các vấn
đề thuộc triết học và thần học.
3. x. Courth, Texte, số
30.
4. x. Augustinus, Serm.
291,6.
5. Panarion 78, 11; x.
Courth, Texte, số 45.
6. x. De ortu et obitu
Patrum 67; PL 83, 148tt.
7. x. Retr.in Act. Ap. 8; PL. 92, 1014
D.
8. PL. 40, 1141-1148: x. Courth, Texte, số 85.
9. Theo sự tìm hiểu thì người ta
đã phỏng đoán là Ambrosius Autpertus, Ratramnus von Corbie và
Alkui.
10.
x.
Georg. Söll, Mariologie (HDG III/4, Freiburg 1978, trang 129.
11.
x. De Assumptatione Beatae Mariae
Virginis, Serm. 2.
12.
x. Summa Th. I,
q. 29, a. 1, ad 5.
(Còn tiếp)
Lm Nguyễn Hữu
Thy