Yêu thương như Thầy
đã yêu thương
(Suy niệm của
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài
Tin Mừng hôm nay là lời cáo biệt Đức Giêsu nói cho
các môn đệ thân yêu trước khi Người ra đi
chịu chết, đồng thời cũng là những lời
trăn trối thâm tình nhất. Chính trong
bối cảnh cụ thể và lịch sử đó mà
‘điều răn mới’ trở thành đặc biệt
quan trọng và sâu sắc.
Không
hiểu sao: mãi cho tới bây giờ, tôi vẫn chưa hết
dị ứng với chữ ‘giới răn’ (commandments). Một từ vựng
khác là ‘thập điều’ (Decalogue)
xem ra nhẹ nhàng hơn nếu xét theo nguyên
ngữ. Đối với người công giáo, cũng không
biết từ bao giờ, từ ngữ ‘giới răn’
đã trở thành phổ biến và quen tai.
“Điều răn’ có nghĩa là: một qui đinh, một
điều buộc phải làm hay cấm không được
làm, phát xuất từ một thẩm quyền tối
thượng. Đã là điều răn,
thì mọi người ai đều ‘phải’ tuân giữ.
Người Việt Nam quen với khái niệm: ‘lời răn
bảo’ (nên, hãy), với nội dung nhẹ nhàng và khích lệ
hơn. Tôi thiết nghĩ là con người
đương đại (đặc biệt giới trẻ
hôm nay) cũng chuộng nhẹ nhàng khuyên nhủ hơn là
răn đe. Hơn nữa, trong các ‘điều răn’ thì,
luật buộc phải yêu thương lại có vẻ bất
hợp lý hơn hết! Tình yêu không thể bó buộc! vì nó dựa trên tự do và nhận thức;
không một ai, kể cả Thiên Chúa, có thể bắt buộc
người khác phải yêu mình. Là chúa tể, Ngài chỉ có
quyền bắt mọi tạo vật phải thờ lạy,
phải kính sợ mình mà thôi! Thế thì ta phải hiểu
câu nói của Đức Giêsu thế nào đây: “Thầy ban cho anh em một điều
răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”.
Trước
hết hãy nhớ rằng: các thính giả của Đức
Giêsu trong cái giờ phút biệt ly đó là các môn đệ;
mà các ông đều là những người Do Thái gốc
(xem Ga 1:47). Các Pha-ri-sêu vẫn thường nói tới
‘điều răn’ (xem Mt 22:34-40), vậy thì việc Đức Giêsu đề cập
tới một ‘điều răn mới’ là hoàn toàn hữu
hiệu để lôi cuốn đám thính giả Do Thái lắng
nghe Người. Chắc hẳn các môn đệ đã khá
quen thuộc với các đoạn chương 20, câu 2-17
trong sách Xuất Hành, hoặc chương 5 câu 6-21 sách Đệ
Nhị Luật. Các đoạn văn này đều đặt
‘10 giới răn ’ dựa trên thẩm quyền tối
thượng của Đức Chúa Gia-vê, Đấng đã
giải thoát dân khỏi ách nô lệ bên Ai-Cập và dẫn
đưa họ vào đất hứa. Mười điều
răn hay thập giới có thể được coi
như các điều khoản của giao ước dân Do
Thái ký kết với Gia-vê, Đấng giải phóng họ.
Tự nó, thập giới là những qui luật rất nhân
bản và hợp lý, kể cả ba khoản đầu trực
tiếp liên quan tới Đức Chúa, tuy nhiên ta không thể
khảng định thập giới đích thực là luật
yêu thương! Đúng hơn, đó là luật công bằng,
luật sòng phẳng, luật ràng buộc do cam kết của
một khế ước giữa hai bên ký kết với
nhau. Ngay cả ‘yêu tha nhân như yêu chính mình’ cũng chỉ
xuất phát từ đòi hỏi công bằng của Cựu
ước: “Tất cả Luật
Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều
răn ấy” (Mt 22:40); chính Đức Giêsu đã khảng định
như vậy.
Trong
bối cảnh đó thì “anh em
hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
anh em” mới là ‘điều
răn’ hoàn toàn mới mẻ, vì nó vượt xa những
đòi hỏi công bằng sòng phẳng của một giao
kèo xã hội. Nền tảng và nguyên lý của ‘hãy yêu
thương này’ chính là con người Đức Giêsu Ki-tô,
Đấng đã hiến mình chịu chết trên thập
giá… để thực hiện cuộc giải phóng và lập
một vương quốc thứ tha. Đó chính là ‘điều
răn’ căn bản của giao ước mới, nói theo lối diễn tả của của
người Do Thái. Nó phát xuất từ sự khám phá ra, hay
nhận thức được: sự trung thành tuyệt
đối của một Thiên Chúa cứu độ, nhân ái
và giầu lòng xót thương, để rồi tự
đáy lòng mỗi người nẩy sinh và phát triển một
tình yêu đáp trả quảng đại. Chính vì điều
này mà, và trong tâm tình sâu đậm nhất của cuộc tiễn
biệt, Đức Giêsu mới chính thức công bố
‘điều răn’ này! Sắp tới đây, các môn đệ
sẽ tận mắt chứng kiến tình yêu này bắt
đầu trở thành hiện thực: các ông sẽ
được chứng kiến một Thiên Chúa yêu đến
cùng, yêu tới độ “sai
Con của Người đến làm của lễ đền
tội cho chúng ta” trên Thập Giá (1 Ga 4:10).
Nếu
thế thì đây không còn phải là một ‘điều răn’ chính hiệu nữa, có nghĩa
là không phải là một điều gì áp đặt từ
bên ngoài. Tình yêu mời gọi tình yêu! Những ai đã chứng
kiến tình yêu Thập Giá, đã cảm nghiệm thấy “tình yêu đó là như thế
này…” (1 Ga 4:8-11) thì việc ‘buộc’ hay ‘phải’ yêu
thương anh em mình chỉ còn là một cách nói. Thực ra
chẳng có buộc gì cả: nếu anh biết Thiên Chúa
trong Đức Giêsu Ki-tô hiến mình trên thập giá cho anh và
biết cách thâm sâu, thì việc yêu người anh em lỗi
phạm sẽ là một đòi hỏi nội tại, một
công việc của cõi lòng. Ngược lại, nếu anh
thấy mình chưa thể yêu thương người anh
em, thì đơn giản là vì anh chưa thật sự thấu
hiểu Thập Giá, nơi Thiên Chúa đã yêu và hiến mình
cho anh bất chấp con người anh đầy tội
lỗi. Gioan đã muốn diễn tả như thế
trong các chương 4 và 5 của lá thư thứ nhất:
hoặc biết về tình yêu xót thương của Thiên
Chúa hoặc không thể yêu tha nhân: vì nếu thấu hiểu
được lòng Chúa nhân ái xót thương, thì chúng ta ‘phải’,
như một định luật hoàn toàn lô-gích hay đúng
hơn một chuyển động tất nhiên của cõi
lòng, yêu mọi người anh em của mình thôi, cho dầu
họ có bất toàn tới mấy. Yêu thương tha thứ
cho kẻ thù nghịch sẽ mãi mãi là điều không thể,
là một nghịch lý của niềm tin, bao lâu Thập Giá
chưa được chúng ta giương cao trong đời
sống.
Do
đó, nếu tôi chưa thấy mình có thể yêu mến hoặc
tha thức cho cận nhân, thì tôi biết đâu là nguyên nhân rồi
đó!
Lạy Chúa từ nhân, nếu con chưa
thể yêu các anh em con, thì đơn giản là vì con chưa
hiểu thấu và cảm nghiệm được: ‘Chúa yêu
thương và hiến mình vì con’ tới mức độ
nào. Xin cho con biết chiêm ngắm Thập Giá, nhất là khi
cử hành Thánh Lễ, để con ngày càng vào sâu hơn
trong tình yêu xót thương của Chúa. Chỉ qua cách đó,
phải, qua cách duy nhất đó, con mới có thể trở
nên một Linh Mục đích thực, biết yêu mến và
tự hiến cho đoàn chiên và các anh em con ‘như Chúa
đã yêu thương’. Xin hãy giúp con đạt được
điều này trong công tác mục vụ hàng ngày của con.
Amen.
|