Lửa
truyền giáo -
Đức Cha
GB. Bùi Tuần
TRUYỀN GIÁO,
MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA LINH MỤC VIỆT NAM THỜI NAY
(Bài giảng
thánh lễ Truyền Dầu ngày 28 tháng 3 năm 2002)
Một
trong những niềm vui lớn của tôi, khi nhìn giáo
phận nhà, là thấy số linh mục tương
đối đông, đa số còn trẻ, tất cả
đều hợp nhất.
Nói chung, tất cả các linh mục của chúng
ta đều có thiện chí làm tốt bổn phận
của mình.
Hiện
nay, bổn phận linh mục tại Việt Nam nói chúng và tại
địa phương chúng ta nói riêng không phải dễ
dàng.
Ngoài
những bổn phận thông thường vốn đi
liền với chức linh mục, thì còn một số
bổn phận mới.
Thí
dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối
hợp những giá trị truyền thống với
những đổi mới có giá trị. Để sống
đạo được nhìn nhận như một
mời gọi hấp dẫn, thăng tiến, chứ không
phải như một lối sống khép kín, lỗi thời.
Thí
dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối
hợp những kiến thức tôn giáo với những kinh
nghiệm nội tâm.
Để sống đạo được nhìn nhận
như một chiều kích thiêng liêng đi sâu vào con
người, chứ không phải chỉ là một lý
thuyết suông.
Thí
dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối
hợp giáo lý với thực tế cuộc sống. Để sống đạo
được coi như ánh sáng của đương
thời, chứ không phải như bóng mờ của
một cõi xa xôi, lạnh lùng, huyền ảo.
Nhất
là bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp
mục vụ và truyền giáo. Để linh mục là người ra
khơi thả lưới, chứ không phải chỉ là
người chủ chăn.
Riêng
về bổn phận trên đây, tôi muốn chúng ta cùng nhau
dừng lại, để suy nghĩ thêm. Bởi vì truyền
giáo là một trách nhiệm quan trọng, một tiếng
gọi bức xúc. Nếu coi
thường bổn phận này, tôi sợ chúng ta sẽ phạm
một lỗi lầm lớn, đạo sẽ cằn
cỗi, bản thân ta sẽ chìm sâu xuống thung lũng vô
hình cực kỳ nguy hiểm.
Suy
nghĩ truyền giáo của chúng ta sẽ được
gợi ý bằng mấy việc truyền giáo của Chúa
Giêsu, để từ đó chúng ta sẽ thấy việc
truyền giáo có thể thực hiện được trong
hoàn cảnh mục vụ hiện nay.
Tôi
xin nêu lên ba trường hợp của Chúa Giêsu.
Trường
hợp thứ nhất là cuộc gặp gỡ với
người phụ nữ Samaria (Ga 4,7-42). Bà này là người ngoại giáo. Do
đời sống gia đình lôi thôi, bà sống giữa xã
hội như kẻ bị loại trừ. Bà
không chủ ý đi gặp Chúa Giêsu. Nhưng
Chúa
Giêsu đã như vô tình gặp bà. Bắt đầu
là một đối thoại vắn về đời
sống, về khổ đau, rồi sau đó Chúa làm
một cử chỉ cứu độ. Chúa
giúp bà vượt qua ranh giới mặc cảm tội
lỗi. Bà tin vào Chúa. Hơn
nữa, bà trở thành người đứng đầu
một nhóm loan báo Tin Mừng giữa dân ngoại.
Trường
hợp thứ hai là cuộc gặp gỡ với vị
sĩ quan thành Caphanaum (Ga 4,46-54). Ông là người Rôma ngoại giáo. Ông thuộc lớp người có chức có
quyền. Ông xin Chúa chữa con ông đang hấp
hối. Cũng sau một đối thoại
về khổ đau, Chúa đã làm một cử chỉ
cứu độ. Chúa đã giúp ông
vượt qua được biên giới phân biệt giai
cấp, tôn giáo và dân tộc. Ông tin vào
Chúa. Hơn nữa, ông trở thành người
đứng dầu một nhóm loan báo Tin
Mừng
giữa giai cấp chức quyền.
Trường
hợp thứ ba là cuộc gặp gỡ với
người bại liệt (Ga 5,1-18). Anh
này sống chung với một đám
người tật bệnh nghèo khổ. Đã 38 năm anh
nằm một chỗ cô đơn,
lầm lũi trên bờ hồ Bết-da-tha. Anh
là kẻ bị xã hội loại trừ. Chính Chúa đã chủ động đến
gặp anh. Cũng bắt đầu
bằng một đối thoại về khổ đau,
sau đó là cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp anh vượt qua biên giới cùng
khổ. Anh tin vào Chúa. Hơn
nữa, anh trở thành người đứng đầu
một nhóm nhỏ loan báo Tin Mừng ngay giữa những
người phản đối Chúa.
Ba trường
hợp trên đây gồm một người ngoại
đạo trong cảnh bê bối, một người
quyền chức trong cảnh khó khăn, một
người tật bệnh trong cảnh khốn cùng
tuyệt vọng. Chúa đã gặp họ,
đã nói chuyện với họ về các vấn
đề thuộc về cuộc sống, rồi đã làm
cho họ một việc cứu độ.
Tôi
thấy các loại người như thế hiện nay
vẫn còn rất nhiều trong xã hội chúng ta. Nhiều
người công giáo đã gặp họ. Cũng đã có những chuyện trò về
cuộc sống, về khổ đau, rồi trong lúc
thuận tiện đã có những cử chỉ cứu
độ. Kết quả rất bất ngờ:
Nhiều người trước đây xa lạ nay
nhận được Tin Mừng. Sau đó, chính họ gây
dựng nhiều nhóm nhỏ để bàn về Tin Mừng
và loan báo Tin Mừng. Có nhóm trong khuôn khổ giáo xứ. Có nhóm ngoài cơ chế giáo phận.
Tất cả
những gì tôi vừa nêu trên đều làm chứng
rằng: Trong mục vụ có vô số cơ hội
để truyền giáo. Hơn nữa, trong
sống đạo cũng có vô số dịp để làm
việc truyền giáo. Linh mục làm, tu
sĩ làm, giáo dân cũng làm. Thậm chí
người ngoại giáo cũng làm. Làm
qua những nẻo đường cuộc sống.
Làm qua những vấn đề bức xúc của con
người. Nếu không làm thì thiết tưởng
không phải không có dịp để làm, nhưng là không có
nhiệt tâm và tỉnh thức.
Như
thế, điều quan trọng trong truyền giáo là
người truyền giáo phải có hồn truyền giáo. Hồn đầy
lửa mến Chúa. Hồn đầy
lửa thương người.
Lửa đó là
lửa từ trái tim Chúa chia sẻ ra. Lửa đó được chia sẻ cho
những hồn khiêm tốn, từ bỏ mình, thiện chí
muốn gieo trồng sự thiện.
Lửa
đó là lửa thanh luyện, lửa cầu nguyện,
lửa canh thức, lửa thương cảm, lửa cháy
trong thánh giá.
Nhờ lửa
như thế, người truyền giáo mới gần gũi được với con người,
mới thương cảm được với thân
phận từng người, mới hiểu
được các vấn đề luôn mới trong dòng
lịch sử đầy chuyển biến của xã
hội và con người. Nhờ vậy, mà
họ là người đáng tin. Đồng
bào Việt Nam thời nay không còn
dễ tin vào những người nói mạnh nói khéo. Nhưng họ tin
vào những người có cái tâm yêu thương, chân thành,
khiêm tốn, vừa sâu về đời sống thiêng liêng,
vừa cởi mở thông cảm về phía con người.
Với
vài suy nghĩ trên đây, tôi xin anh chị em cầu
nguyện cho Hội Thánh Việt Nam được
trở thành một Hội Thánh truyền giáo. Xin hãy cầu nguyện cách riêng
cho các linh mục của chúng ta, để mọi linh
mục và từng linh mục, bất cứ trong chức
vụ nào, ở tuổi nào, với hoàn cảnh nào, luôn coi
bổn phận truyền giáo là một trách nhiệm mà Chúa
đòi phải chu toàn. Chu toàn một cách khôn ngoan theo ý Chúa. Mình có trách nhiệm thì cố
gắng chu toàn. Còn kết
quả ra sao thì hãy để mặc Chúa. Chúng ta cần nâng đỡ các linh mục của
chúng ta trong bổn phận truyền giáo. Bởi vì công việc truyền giáo thường
được bắt đầu từ các ngài và được
phát triển cũng nhờ các ngài.
Chớ chi
thời nay truyền giáo trở thành một đặc
điểm sáng chói của mọi linh mục tại
Việt Nam chúng ta.
|