MeMaria.org
Radio Giờ Của Mẹ - Giờ Bình An - Giờ Tin Yêu - Giờ Hy Vọng
(714) 265-1512. Email: Kim Hà
banner
Skip Navigation Links.
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tài Liệu Về Đức Mẹ</span>Tài Liệu Về Đức Mẹ
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đức Mẹ Việt Nam</span>Đức Mẹ Việt Nam
Lòng Thương Xót Chúa
Mục Bác Ái / Xin Giúp Đỡ Vn
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tiểu Mục</span>Tiểu Mục
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đề Mục Chính</span>Đề Mục Chính
Gallery
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tác Giả Và Tác Phẩm</span>Tác Giả Và Tác Phẩm
Google Search
memaria www  

Local Search
PayPal - The safer, easier way to pay online!
top menu :: mẹ maria
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
  
Đức Mẹ Hiện Ra Tại Lourdes (lộ Đức), Nước Pháp
Thứ Ba, Ngày 12 tháng 2-2019

Đức Mẹ Hiện Ra Tại Lourdes (Lộ Đức), Nước Pháp

Lm Thu Băng, CMC

Nguồn: Linh Địa Đức Mẹ

Lộ Đức là một thành phố nhỏ thuộc tỉnh Pyréné nước Pháp. Dân số chừng bốn ngàn người. Phía sau thành phố là một triền núi khá cao là ngọn Massabielle có nhiều động đá với cây Tường-Vi rừng len phủ chằng chịt. Có con rạch Gave chảy quanh, do nước mưa từ các nơi chảy xuống. Chính nơi động đá lớn này Đức Mẹ đã hiện ra với chị Bernadette 18 lần trong năm 1858.

1. Cuộc Đời Chị Bernadette

Cha của Bernadete là ông Francis Soubirou và mẹ là bà Louis Catero, sinh sống tại Lourde. Ông bà cho chào đời một ái nữ đầu lòng (1844), đặt tên là Bernadete. Em bị bệnh suyễn ngay từ nhỏ, nên thân thể phát triển rất chậm. Bernadete rất tự nhiên, vui vẻ và cương quyết. Hay giận, nhưng cũng rất mau nguôi. Vì bệnh và trí khôn chậm, nên em không đi học được. Nhưng về việc đạo thì Bernadete rất sốt sáng, nhiệt thành và đạo đức. Giữa lúc em đang dọn mình Chịu Lễ lần đầu, thì ngày 11 tháng 2 năm 1858, Đức Mẹ đã hiện ra với em. Từ đó cho đến ngày 16 tháng 7 năm 1858 (trong vòng 5 tháng), Đức Mẹ đã hiện ra với em 18 lần, và cũng từ đó, Lộ Đức là nơi xảy ra rất nhiều phép lạ. Sau các lần Đức Mẹ hiện ra, Bernadete cảm thấy mình có sứ mệnh đền tạ thay cho kẻ tội lỗi, và từ đó em có ý tưởng đi tu. Bernadette đã vào dòng thánh Gildard ngày mùng 3 tháng 7 năm 1866. Sau những năm tập luyện Bernadette được mặc áo dòng và đổi tên là Maria Bernard. Trong nhiều năm sống nơi tu viện, Chúa cất những niềm vui thiêng liêng mà trước đây Chúa dành cho chị, lại để chị đi vào con đường đen tối, gặp nhiều đau khổ thử thách, chê bai, nhạo cười, để Bernard thêm thánh thiện. Năm 1867 Chúa để chị Bernard bị phong thấp nơi chân, nhưng chị vẫn khuất phục cơn bệnh để tiếp tục phục vụ đồng loại trong nghề Y Tá. Từ tháng 10 năm 1875, sức chị yếu dần, không làm gì được nữa chị mới chịu nghỉ việc và chị nhận "Chức vụ chính của tôi là đau ốm". Mùa hè năm 1877, chân chị phát chứng làm độc, rồi từ đó các thương tích khác lại nổi lên khắp chân tay mình mẩy, cho tới khi chỉ hấp hối giữa tuần Phục sinh năm 1879, vừa lúc được 35 tuổi.

Năm mười bốn năm sau khi qua đời, tức là ngày 8 tháng 12 năm 1933, chị được Đức Giáo Hoàng Piô 11 tôn phong lên bậc hiển thánh.

2. Đức Mẹ Hiện Ra

Vào trưa ngày 11 tháng 2 năm 1858, Bernadette, Jeanne Abadie và Marie Toinette cùng nhau tiến về bờ suối Gave nhặt củi. Đến gần hang Massabielle, các em phải lội qua giòng nước để sang bờ bên kia. Hai bạn đã qua suối, còn Bernadette vì bệnh nên sợ nước lạnh, cứ ngập ngừng chưa chịu lội sang. Bernadette kể:

"Tôi đang định tháo giầy để lội xuống nước, thình lình tôi nghe tiếng gió ù-ù thổi mạnh như sắp có cơn bão lớn. Nhìn trước nhìn sau không thấy gì, tôi tiếp tục cởi vớ để lội qua suối, thì tiếng gió lại nổi lên. Nhìn thẳng về hang núi, tôi thấy một thiếu nữ rất xinh đẹp đứng đó, trạc độ 17 tuổi, mặc áo trắng dài che gần hết đôi chân, mỗi đầu ngón chân là một bông hồng óng ánh. Thiếu nữ thắt lưng xanh, tay đeo tràng chuỗi, hạt trắng hạt vàng, giống những bông hồng ở nơi chân. Trên đầu trùm khăn trắng xoã xuống thân người. Tưởng rằng nhìn lầm, tôi dụi mắt nhìn lại nhưng vẫn thấy là bà ấy. Sợ quá, tôi vội thọc tay vào túi lấy ra xâu chuỗi và quì xuống lần hạt, xin Đức Mẹ đến cứu giúp. Bà cũng lấy xâu chuỗi đeo trên cách tay mình và bắt đầu lần hạt với tôi. Lần hạt xong, Bà làm hiệu cho tôi đến gần, nhưng sợ quá, tôi chạy vội qua suối, quơ đống củi mà các bạn đã xếp đống ở đó đem về nhà. Bà đẹp biến đi và hai bạn cũng không hay biết chuyện gì xảy ra cho tôi cả. Trên đường về, thấy nét mặt của tôi khác thường, nên Marie gạn hỏi mãi, nhưng tôi không chịu nói. Tới khi về gần đến nhà tôi mới chịu thuật lại chuyện lạ đã xẩy ra cho mình. Không giữ được bí mật, em Marie đi nói cho mẹ nghe. Thế là tôi bị quở trách nặng lời suốt buổi và mẹ còn cấm chúng tôi từ nay không được đến đó nữa".

Mãi đến hai ngày sau (14 tháng 2 năm 1858), như có tiếng thúc bảo, Bernadette mới dám mở miệng xin mẹ cho ra hang núi cùng với mấy người bạn đã được nghe kể. Năn nỉ mãi bà mới cho phép đi. Thình lình Bernadette la lên:

- Bà đến! Bà đến rồi kìa.

Theo lời người bạn bảo:

- Nước-Thánh sẽ xua đuổi ma qủi hiện hình trêu ghẹo, nên Bernadette đã lấy Nước-Thánh đem theo rẩy lên bà. Bà đẹp chẳng sợ, lại tỏ ra hài lòng và mỉm cười với mọi người. Thế là người ta đoán là Đức Mẹ hiện ra. Bernadette cầu nguyện sốt sáng và bắt đầu ngất trí, mãi đến khi được đưa về nhà Bernadette mới tỉnh. Tiếng đồn lại càng lan rộng thêm về điềm lạ ấy.

Lần thứ ba Đức Mẹ hiện ra ngày 18 tháng 2 năm 1858. Lần này có nhiều người hơn theo Bernadette để xem sự lạ. Bernadette đem theo giấy viết để xin Đức Mẹ ghi những gì Mẹ muốn dạy, nhưng Đức Mẹ không viết mà chỉ cho biết Bernadette sẽ phải khổ nhiều ở trần gian, nhưng sẽ được hạnh phúc trên trời. Mẹ lại xin Bernadette trở lại gặp Mẹ 15 ngày liền nữa. Ba lần hiện ra vừa qua chỉ là chuẩn bị cho những lần hiện ra sau này.

Những lần hiện ra kế tiếp là những lần Bernadette ngất trí và xuất thần, người xem chỉ thấy những cử chỉ lạ nơi thân xác em, còn nội dung chỉ được tỏ ra dần dần. Những lần này cũng là để các vị liên hệ và nhà chức trách kiểm chứng sự thể. Một vài lời dạy Bernadette nhận được như:

- Các con hãy cầu nguyện cho người tội lỗi ăn năn trở lại.

- Các con hãy làm tròn bổn phận hàng ngày.

- Hãy cầu nguyện cho những người cứng lòng tin, cho những người cố tâm phá hoại Đạo Chúa, được ơn thống hối ăn năn... .

- Hãy ăn năn đền tội.

Lần thứ 9 hiện ra, Đức Mẹ chỉ cho Bernadette lấy tay cào bới chỗ đất khô trước mặt em, để khơi nguồn một suối nước có phép chữa bệnh cho những ai vững niềm tin cậy.

Lần thứ 10 (ngày 26 tháng 2 năm 1856), Đức Mẹ hiện ra và truyền:

- Con hãy hôn đất ăn năn thay cho người có tội.

Bernadette cũng làm hiệu cho mọi người cúi xuống hôn đất ăn năn tội.

Lần thứ 11 hiện ra, Đức Mẹ bảo Bernadette về thưa cùng cha sở

- Xây cho Mẹ một đền thờ ở đây để Mẹ thi ân cho nhân loại.

Chúa Nhật ngày 28 tháng 2 năm 1858, trên 2000 người tựu lại để xem sự lạ. Lần này Bernadette thưa Đức Mẹ về chuyện đã xin với cha sở xây nhà thờ như Mẹ dạy. Đức Mẹ mỉm cười với lời thân thưa ấy.

Lần thứ 14 Đức Mẹ nói:

- Mẹ muốn người ta đến đây thăm viếng Mẹ.

Từ đó con cái muôn phương trên thế giới đã đến đây thăm viếng Mẹ không ngớt.

Lần thứ 15 Đức Mẹ chỉ hiện ra cho Bernadette chiêm ngắm và không làm dấu lạ nào khác.

Lần thứ 16 Đức Mẹ tỏ mình ra:

- Ta là Đấng Chẳng Mắc Tội Tổ Tông.

Đây là lần thứ hai Đức Mẹ tỏ cho nhân loại biết về ơn đặc biệt này của Mẹ. (Lần thứ nhất Đức Mẹ đã tỏ ra cho chị Catharine Labouré trong tu viện Rue Dubac, Paris).

Lần thứ 17 một phép lạ xẩy ra là lúc Bernadette xuất thần, tay đang cầm đèn cầy cháy sáng, các bác sĩ thử nghiệm đã úp hai bàn tay Bernadette lên ngọn lửa mà tay em không bị đốt cháy.

Lần thứ 18 cũng là lần hiện ra sau hết, Đức Mẹ đến chỉ để an ủi và mừng cho Bernadette trong ngày em được rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng lần đầu tiên trong đời.

Tóm lại, Đức Mẹ đã hiện ra với Bernadette cả thẩy 18 lần để nhắc nhở loài người: Năng chạy đến với Mẹ, ăn năn đền tội, lần hạt Mân Côi để làm nguôi đi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa vì tội lỗi nhân loại đã xúc phạm đến Ngài. Ngoài ra còn để Mẹ thi ân cứu giúp những ai chạy đến cùng Mẹ nữa.

3. Các Phép Lạ

Sau đây xin được ghi lại mấy phép lạ đã được Hội Đồng Giáo Luật (Commission Canonique) công nhận.

Chị Dehant 29 tuổi, quê ở Gasves (nước Bỉ). Chị bị một vết thương nơi chân phải từ lúc 17 tuổi. Vết thương sau đã biến thành ung độc hôi thối và làm đùi chị bị co cứng lại. Sức khỏe vì thế ngày một yếu dần. Ngày 6 tháng 9 năm 1878, chị đến Bác sĩ Y khoa Froidebise tại Ohey. Ông đã cho giấy chứng như sau:

"Tôi ký tên dưới đây là Gustave Froidebise, Bác sỹ Y khoa tại Ohey chứng thực có khám bịnh cho chị Dehant, 29 tuổi và nhận thấy chị đã trẹo xương nơi chân mặt. Các bắp chân co rút lại nên ống chân què và ung-độc phủ cả bắp đùi bên phải".

Lúc đến Lộ Đức, ai cũng thấy vết thương này và rất khó chịu vì mùi hôi thối của ung nhọt xông ra. Chị tới hang đá vào ngày 10 tháng 9 năm 1878. Trong năm ngày lưu lại đây, chị đã được tắm nước suối hai lần. Đến ngày 15 tháng 9 năm 1878, chị đã được lành bệnh cách lạ lùng. Trong khi tắm, chị cảm thấy chân đau đớn dữ dội; nhưng khi Y Tá giúp thay băng mới thì chị thấy ung nhọt đã lành da. Chị vui mừng tạ ơn Đức Mẹ rồi đứng lên và đi được không cần ai đỡ cả. Ngày 19 tháng 9 chị trở về quê hương và xin Bác sĩ Froidebise khám lại: Quả nhiên vết độc đã lành hẳn.

Tờ báo L'Echo de Lourdes (Tiếng Vang Lộ Đức) năm 1918, tường thuật câu chuyện sau: Một bác sỹ rất giỏi nhưng lại vô thần đồng ý dẫn một thiếu nữ tứ chi bất toại tới Lộ Đức, khi ông bó tay không chữa được, khi cô ngỏ ý sẽ đến Lộ Đức xin Đức Mẹ cứu chữa. Nhiều lần ông cười nhạo Đức mẹ và ông quả quyết:

- Tôi sẽ theo cô sang Lộ Đức. Nếu tôi thấy cô lành bệnh, nếu tôi thấy cô chỗi dẫy mà đi được vì tìn vào Đức Mẹ của cô chữa, thì tôi sẽ theo Đạo Công Giáo ngay. Nói thế chứ làm gì xẩy ra chuyện đó được. Tôi bảo đảm chuyện đó không xẩy ra đâu.

Tại Lộ Đức, cô thưa chuyện với cha Giải tội và xin cha cầu nguyện để Đức Mẹ cứu ông Bác Sỹ này. Cô được xe chở xuống bể nước tắm. Cha Bailly cũng đi theo. Lúc người ta giúp cô xuống hồ nước tắm, ngài kêu lớn tiếng:

- Hỡi anh chị em, có ai trong anh chị em sẵn sàng hy sinh để cứu một người mất đức tin không? Ai trong anh chị em sẵn sàng chịu bệnh vì Chúa để người vô thần kia được cứu rỗi không?

Một bệnh nhân chống nạng đến xin chấp nhận chịu bệnh cho đến chết. Rồi một bà mẹ nâng đứa con câm điếc lên và nói:

- Thưa cha, cha hãy dâng đứa con câm điếc này cho Đức Mẹ, để người bất hạnh ấy được ánh sáng Đức tin.

Ngay lúc ấy, cô thiếu nữ tứ chi bất toại liền được Đức Mẹ chữa khỏi. Cô đứng dậy và giơ hai tay cho người phục vụ kéo cô ra khỏi bể tắm và bệnh của cô hoàn toàn được lành. Người vô thần kia thấy thế liền quì ngay xuống trước đám đông và kêu lên:

- Lạy Chúa, con tin. Xin Chúa tha tội cho con.

Bà Hébert 51 tuổi, sinh trưởng ở Lisieur. Thân phụ bà mắc bệnh lao năm cụ được 63 tuổi. Người anh họ của bà cũng chết vì bệnh lao lúc mới được 18 tuổi. Thân mẫu bà cũng chết vì bị sưng cuống phổi năm cụ 62 tuổi. Bà Hébert cũng đã bị nhiễm bệnh từ lúc 14 tuổi. Bà phải uống dầu cá trong mùa hè để cầm cự. Năm lên 38 tuổi bà bị sưng cuống phổi, phải nằm nhà thương 4 năm trời. Đến 42 tuổi bà thường bị mệt, ho ra máu nhiều vì có nhiều vi trùng lao.

Bà được gia đình đưa đi kính viếng Đức Mẹ Lộ Đức một lần trước khi chết. Trên đường đi bà bị ho ra máu quá nhiều, bà tưởng chết dọc đường. Nhưng đến nơi, ngày 21 tháng 8 năm 1900, bác sĩ thấy bà quá kiệt sức, liền khám bệnh cho bà và cho hay phổi bà đã bị vi trùng Lao ăn lủng quá nhiều chỗ, không hy vọng kéo dài sự sống được. Mọi người đưa bà đến trước hang đá nơi Đức Mẹ hiện ra, để cùng với bà cầu nguyện cho bà được chết bình yên. Cầu nguyện xong, bà lại nài nỉ con cháu cho bà được tắm nơi suối phép lạ một lần. Nể lòng mẹ, các con phải đưa bà đi tắm. Vừa đầm mình xuống nước, bà thấy trong mình đau đớn dữ dội, nhất là phần ngực. Nhưng ít phút sau sau đó bà thấy dễ chịu và cảm thấy như mình có sức lại. Lên khỏi hồ tắm, bà qùi ngay xuống đó tạ ơn Đức Mẹ đã chữa lành bệnh phổi của bà. Bà không còn ho và khạc nhổ như trước nữa. Bà bắt đầu đói và thèm ăn.

Từ đó bệnh của bà hết luôn. Mặc dù bà làm việc nhiều những cũng không bao giờ tái phát.

4. Kinh Khấn Đức Mẹ Lộ Đức

Lạy Thánh nữ Đồng Trinh Ven Tuyền Lộ Đức, Chúng con theo lời Mẹ dạy, chạy đến quỳ dưới chân Mẹ, gần bên hang đá hèn mọn, là nơi Mẹ đã thương hiện ra để chỉ cho những người lầm đường lạc lối con đường sám hối và cầu nguyện; Cùng phân phát cho kẻ khốn-cùng những ơn thánh và sự lạ do lòng từ bi cao cả Mẹ.

Ôi Nữ Vương nhân ái, xin hãy nhận lấy những lời tán tụng và khẩn cầu của muôn người muôn nước đang gặp cảnh sầu đau, lo sợ, mà họ thành tín dâng lên Mẹ.

Hỡi Mẹ là ánh hào quang thiên quốc, xin chiếu ánh sáng Đức Tin trên những người lầm lạc. Xin hãy lấy thiên hương Đức Cậy mà xoa dịu những tâm hồn thống khổ. Ôi Maria nguồn suối cứu rỗi vô tận, xin hãy kín múc nguồn tình thương của Chúa mà tưới gội những tâm hồn khô héo.

Xin ban cho các con cái Mẹ, niềm an ủi trong cơn sầu khổ, sự chở che trong cơn nguy khốn; được nâng đỡ trong giờ giao tranh. Xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa Giêsu dịu ngọt của Mẹ đến cùng, hầu ngày sau chúng con cũng được hưởng sự an vui đời đời cùng Mẹ trên nước thiên đàng. Amen. (Đức Thánh Cha Piô 12 soạn).

Lm Thu Băng, CMC


Phép Lạ Lộ Đức và Bác Sĩ Alexis Carrel

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Bác sĩ Alexis Carrel

- Lạy Mẹ nhân hiền, Đấng hằng cứu giúp những ai khốn cùng khiêm tốn kêu cầu Mẹ, xin Mẹ hãy gìn giữ con. Con tin nơi Mẹ. Mẹ đã dùng một phép lạ cả thể để trả lời cho nghi ngờ của con. Con chưa biết nhận ra phép lạ và còn tiếp tục hồ nghi. Nhưng ước muốn lớn lao nhất và khát vọng thâm sâu nhất của lòng con là đạt đến Đức Tin!

Đó là lời cầu xin tha thiết của ông Alexis Carrel (1873-1944), bác sĩ Pháp trẻ tuổi, tại đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức, vào một đêm khuya vắng năm 1903, sau khi chứng kiến phép lạ một thanh nữ khỏi bệnh.

Bác sĩ Alexis Carrel và cuộc gặp gỡ bất ngờ

Alexis Carrel chào đời tại Lyon (Bắc Pháp) trong một gia đình Công Giáo đạo đức. Alexis mồ côi Cha năm lên 4 tuổi và được Mẹ giáo dục trong niềm kính sợ THIÊN CHÚA. Nhưng khi lớn lên và trở thành sinh viên xuất sắc, Alexis bỗng đánh mất Đức Tin Công Giáo đơn sơ trong tuổi thơ của mình. Việc Alexis mất Đức Tin một phần do ảnh hưởng chủ thuyết duy vật vô thần rất thịnh hành trong xã hội Âu Châu vào những thập niên cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.

Năm 30 tuổi, Alexis Carrel trở thành bác sĩ và là giáo sư giải phẫu học nổi tiếng của phân khoa thuốc đại học Lyon. Một ngày trong năm 1903, giáo phận Lyon tổ chức cuộc hành hương Lộ Đức dành riêng cho các bệnh nhân.

Vì bị ngăn trở vào phút chót, một bác sĩ bạn nhờ bác sĩ Carrel thay mình tháp tùng các bệnh nhân. Bác sĩ Carrel miễn cưỡng nhận lời, nhưng tận thâm tâm ông vui mừng vì được dịp nhạo cười và chỉ trích tại chỗ những chuyện gọi là ”phép lạ Lộ Đức”. Theo ông, đó chỉ là chuyện nhảm nhí của các tín hữu Công Giáo vô học, ngây thơ và dễ tin!

Trước luận cứ vô thần của ông, một bác sĩ khác, cùng tháp tùng các bệnh nhân trong chuyến hành hương Lộ Đức năm đó, vặn lại:

- Có những trường hợp bị ung thư, lao phổi nặng và bị mù lòa thật sự mà y khoa bó tay, lại được chữa khỏi cách lạ thường, khiến các bác sĩ thuộc đủ mọi quốc tịch - có Đức Tin hay không Đức Tin - đều không thể nào giải thích được. Vậy anh nghĩ sao?

Bác sĩ Alexis Carrel vẫn ngoan cố trả lời:

- Chuyện không thể nào xảy ra được! Chắc chắn là các cuộc khám nghiệm không thi hành nghiêm chỉnh: trước, trong khi, và sau khi khỏi bệnh! Cho tới giờ phút này, các phép lạ chưa được nghiên cứu một cách khoa học. Ngoài ra, chấp nhận phép lạ tức là chấp nhận sự kiện một cách ngu xuẩn, bởi vì, luật lệ thiên nhiên bất biến .. Tuy nhiên, trước một sự kiện tỏ tường, chắc chắn người ta bị bó buộc phải công nhận. Do đó, nếu tôi tận mắt chứng kiến một sự kiện, hẳn tôi sẽ cúi đầu chấp nhận!

Thách thức của bác sĩ Alexis Carrel được chính Đức Mẹ Lộ Đức trả lời.

Trong chuyến hành hương, bác sĩ Carrel được giao nhiệm vụ chăm sóc cách riêng một nữ bệnh nhân tên Marie Ferrand, 24 tuổi. Cô bị bệnh lao phổi ở thời kỳ chót và mắc thêm chứng bệnh sưng màng bụng đau đớn. Các bác sĩ bó tay và cô nằm chờ chết. Nhưng cô có nguyện vọng sau cùng là hành hương Lộ Đức. Lời van nài của cô được chấp thuận.

Chuyến đi càng làm cho bệnh tình cô nặng thêm. Khi đến Lộ Đức thì hầu như cô chỉ còn thoi thóp thở. Bác sĩ Carrel đặc biệt chăm sóc cô và ông thấy rõ cô có thể tắt thở bất cứ lúc nào. Ông nói với bác sĩ bạn:

- Nếu cô này khỏi bệnh thì thật là phép lạ! Lúc đó tôi sẽ tin và sẽ cắt tóc đi tu làm thầy dòng!

Người ta định mang cô Marie Ferrand xuống hồ tắm, nhưng vì bệnh tình quá trầm trọng, người ta chỉ dùng nước suối Lộ Đức thoa rửa trên người cô. Bác sĩ Carrel luôn luôn đứng bên cạnh cô. Ông thầm thì:

- Ôi ước gì con được giống như những tín hữu Công Giáo đáng thương, biết tin tưởng vào quyền lực chữa trị của nước suối Đức Mẹ! Xin Mẹ chữa lành thanh nữ này vì cô quá đau đớn. Xin Mẹ cho cô sống thêm thời gian nữa và xin cho con có được Đức Tin!

Bỗng chốc, bác sĩ Alexis Carrel trông thấy rõ ràng bệnh nhân hồi sinh. Gương mặt cô gái từ từ trở nên hồng hào. Nhịp mạch, nhịp tim đập trở nên bình thường. Cái bụng phình to tướng đang từ từ xẹp xuống. Hiện tượng lạ lùng đó diễn ra trong vòng 20 phút. Đúng 3 giờ chiều, cô Marie Ferrand nói lớn tiếng:

- Con đã được khỏi bệnh!

Người ta mang đến cho cô một ly sữa, cô cầm lấy và uống như một người bình thường.

Trước sự kiện hiển nhiên đó, bác sĩ Alexis Carrel đành chấp nhận:

- Một hiện tượng bất ngờ - không thể nào xảy ra - đã thực sự xảy ra! Đây chính là một phép lạ!

Từ sau phép lạ tại Lộ Đức năm 1903 đó, bác sĩ Alexis Carrel từ từ trở về với Đức Tin Công Giáo và qua đời vào năm 1944.

Lúc sinh thời, bác sĩ Alexis Carrel đã tiến cao trên đài danh vọng, đã lãnh giải thưởng Nobel y khoa năm 1912. Nhưng khi chết, ông đã tắt thở trong Đức Tin đơn sơ của một đứa trẻ. Quả thật, hạnh phúc thay người có Đức Tin!

... ”Lạy Cha Chí Thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho Con, để họ nên một như chúng ta. Khi còn ở với họ, Con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho Con. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như Con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là Sự Thật. Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, Con xin thánh hiến chính mình Con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Gioan 17,11-18).

(Albert Bessières, ”Le Voyageur de Lourdes: ALEXIS CARREL”, Collection Convertis du XXè Siècle, Belgique, 1952)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, 12/01/2008

Ðức Mẹ Lộ Ðức

V

Vào ngày 8 tháng Mười Hai 1854, Ðức Giáo Hoàng Piô IX tuyên bố tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Hiến Chế Ineffabilis Deus. Khoảng hơn ba năm sau, vào ngày 11 tháng Hai 1858, một trinh nữ đã hiện ra với Bernadette Soubirous, mở đầu cho một chuỗi thị khải. Trong lần hiện ra ngày 24 tháng Ba, trinh nữ này tự xưng là: "Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội."

Bernadette là một thiếu nữ yếu ớt, con của hai ông bà người nghèo và không có tham vọng. Việc sống đạo của họ cũng không có gì đáng nói. Bernadette chỉ biết đọc kinh Lạy Cha, Kính Mừng và kinh Tin Kính. Cô còn biết đọc kinh cầu Linh Ảnh(*): "Ôi Ðức Maria được thụ thai mà không mắc tội."

Trong những lần phỏng vấn, Bernadette cho biết những gì cô được nhìn thấy. Cô cho biết "cái gì đó mầu trắng trong hình dạng một thiếu nữ." Cô dùng chữ "Aquero," tiếng địa phương có nghĩa "cái này." Ðó là "một thiếu nữ xinh đẹp với chuỗi tràng hạt trên tay." Áo choàng trắng của ngài có viền xanh. Ngài đội khăn trắng. Trên mỗi bàn chân đều có hoa hồng màu vàng. Bernadette cũng ngạc nhiên ở sự kiện là trinh nữ này không gọi cô với danh xưng bình dân "tu", nhưng với ngôn từ rất lịch thiệp "vous". Người trinh nữ khiêm tốn ấy hiện ra với một cô gái bình dân và đã đối xử với cô như một người có phẩm giá.

Qua một cô gái bình dân, Ðức Maria đã làm hồi sinh và tiếp tục làm sống dậy đức tin của hàng triệu người. Dân chúng bắt đầu đổ về Lộ Ðức từ khắp nơi trong nước Pháp cũng như toàn thế giới. Vào năm 1862, giới thẩm quyền Giáo Hội công nhận tính cách xác thực của những lần hiện ra và cho phép sùng kính Ðức Mẹ Lộ Ðức. Năm 1907, lễ Ðức Mẹ Lộ Ðức được cử mừng khắp hoàn vũ.

Lời Bàn

Lộ Ðức đã trở nên trung tâm hành hương và chữa lành, nhưng nhất là đức tin. Giới thẩm quyền của Giáo Hội công nhận 64 phép lạ chữa lành, mặc dù trên thực tế có lẽ nhiều hơn thế. Ðối với những người có đức tin thì không có gì ngạc nhiên. Ðó là sứ vụ chữa lành của Chúa Giêsu được tiếp tục thể hiện qua sự can thiệp của mẹ Người.

Nhiều người cho rằng các phép lạ lớn lao hơn thì rất bàng bạc. Nhiều người đến Lộ Ðức và trở về với một đức tin được đổi mới, sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa trong các nhu cầu của tha nhân. Tuy nhiên vẫn còn nhiều người nghi ngờ việc hiện ra ở Lộ Ðức. Ðể nói với họ, có lẽ tốt hơn là dùng những lời mở đầu của cuốn phim "Song of Bernadette":

"Với những ai tin vào Chúa thì không cần giải thích. Với những người không tin, thì chẳng sự giải thích nào đầy đủ."

Print In trang | sendtofriend Email | back Trở về
  
Tin/Bài khác
Cn 3982: Thiên Thần Tại Linh Địa Akita (1) (1/11/2018)
Cn 3922: Cuộc Hiện Ra Của Đức Bà Thành Công (our Lady Of Good Success) #2 (7/25/2017)
Cn 3921: Đức Bà Thành Công (our Lady Of Good Success) (7/21/2017)
Câu Chuyệ̣n 6: Nhờ Ơn Đức Mẹ Mà Hết Què (3/29/2017)
Câu Chuyệ̣n 1: Hãy Tin Tưởng Mẹ Maria (3/28/2017)
MeMaria.org -- Từ 15/4/1999 lần truy cập -- Kim Hà [Valid RSS]
Copyright © 2011 www.memaria.org. All Rights Reserved. Powered by VNVN System Inc.
Best view with IE 7.0, Fire Fox, resolution 1024x768