CHÂN
DUNG ĐỨC THÁNH
GIUSE
Đức
Thánh Giuse là Đấng
Công Chính. Ngài sinh tại
Belem, miền Giuđê, vào cuối thế kỷ I trước công
nguyên, và từ giã trần gian vào thế kỷ I sau công nguyên. Ngài thuộc chi tộc Giuđa, dòng
dõi Thánh vương Đavít. Có hai gia phả khác nhau, một theo Thánh Mátthêu và một theo Thánh Luca. Thánh Mátthêu theo
dòng dõi hoàng tộc chính
qua Salômôn, con của Bátseva,
còn Thánh Luca theo dòng dõi hoàng tộc
phụ qua Nathan, một người con khác của Bátseva).
Học
giả Julius Africanus đưa ra cách giải thích này, sau đó được Thánh Augustinô chấp nhận, để giải thích vấn đề có hai gia phả của Chúa Giêsu: Thánh Mátthêu cho
biết cha của Giuse là
Giacóp, còn Thánh Luca nói tên cha là Hêli. Theo Julius Africanus, bà của Giuse kết hôn với ông Mathan (dòng dõi Salômôn) và sinh ra
Giacóp. Khi Mathan qua đời,
bà tái hôn với Mathat (dòng
dõi Nathan) và sinh ra Hêli. Hêli kết
hôn, nhưng khi chết
vẫn không có con. Thế nên người vợ kết hôn với em trai của chồng là
Giacóp, và Giacóp sinh ra Đức
Giuse. Trong trường hợp này, Đức Giuse là con của Giacóp nhưng cũng là
con hợp pháp của Hêli.
Cũng có truyền thống cho rằng Đức Giuse
có người anh em tên là
Anphê/Cơlêôpát, kết hôn với Maria Cơlêôpát (hoặc Maria Anphê, cách phiên âm khác của tên “Halphai”). Họ sinh ra Giôxếp, Simôn, Giacôbê (Nhỏ, Hậu) và Giuđa (Tađêô), những người trở thành
anh em của Chúa
Giêsu (Mt 13:55).
Trình thuật
Mt 1:18-24 cho biết: Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã
thành hôn với ông
Giuse. Nhưng trước
khi hai ông bà về chung sống, bà
đã có thai do quyền năng
Chúa Thánh Thần. Ông
Giuse, chồng bà, là
người công
chính và không muốn tố giác
bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan
tính như vậy, thì kìa
sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu
Đavít, đừng
ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa
Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông
phải đặt tên
cho con trẻ là
Giêsu, vì chính Người
sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Tất cả sự việc này
đã xảy ra, là
để ứng nghiệm
lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và
sinh hạ một con trai,
người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu.
Vài tháng sau, hoàng đế Xêda Augustô ra chiếu chỉ kiểm tra dân số, ai nấy đều phải về
nguyên quán mà khai tên tuổi.
Hành trình gian lao dài khoảng
45 dặm (72,4 km) mới tới Belem – nguyên quán
của Đức Giuse và là nơi khai nhân khẩu. Khi đó Đức Maria gần đến ngày
khai hoa nở nhụy, mà dân
đổ về Belem quá
đông, hai người không
tìm được chỗ trọ.
Họ đành phải
ra hang chiên lừa bên
ngoài thành phố. Tại hang
đá này, Chúa Giêsu đã giáng sinh. Hai người đang ngắm nhìn
Con Trẻ thì thấy đám mục đồng đến reo mừng
theo lời hướng dẫn của thiên thần.
Tám ngày sau, Chúa Giêsu chịu cắt bì theo luật truyền, và bốn mươi ngày sau thì hai ông bà
đem Con Trẻ lên
Giêrusalem để làm lễ dâng cho Thiên Chúa. Có thể họ đã trở lại Belem và ở lại đó một thời gian cho đến khi các
đạo sĩ đến
bái lạy Hài
Nhi. Sau khi các đạo sĩ trở
về theo lối khác, Hêrôđê ra lệnh tàn sát các hài nhi từ hai tuổi trở xuống. Thiên thần lại báo mộng cho Đức Giuse về ý
định độc ác của Hêrôđê và bảo phải trốn gấp đi Ai Cập.
Đức Giuse đã vâng lời và hành động ngay. Thánh Gia lưu trú tại Ai Cập một thời gian tới
lúc Hêrôđê chết
– có thể thời gian lánh nạn kéo dài tới bảy năm.
Trong Mt 2:19-23, Thánh Mátthêu cho biết việc di chuyển của Thánh
Gia từ Ai Cập về
Israel: Sau khi vua Hêrôđê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông
Giuse bên Ai Cập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel,
vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi”. Ông liền
trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel.
Nhưng vì nghe biết
Ác-khê-lao đã kế
vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê,
nên ông sợ không
dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành
kia gọi là
Nadarét, để ứng nghiệm
lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được
gọi là người Nadarét.
Chúa Giêsu sinh sống tại Nadarét. Trong Lc 2:41-52,
Thánh Luca cho biết: Hằng
năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem
mừng lễ Vượt Qua. Khi Người
được mười hai tuổi, cả gia đình
cùng lên đền, như người
ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông
bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông
bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không
thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.
Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi
giữa các thầy
dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng
ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông
bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại
xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không,
cha con và mẹ đây
đã phải cực lòng
tìm con!”. Người
đáp: “Sao cha mẹ
lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”. Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.
Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và
hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những
điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn
ngoan, thêm cao lớn và
thêm ân nghĩa đối
với Thiên Chúa và người ta.
Chúa Giêsu về Nadarét cho tới khi bắt đầu sứ vụ công
khai lúc khoảng ba mươi
tuổi. Có lẽ
Đức Giuse từ giã cõi đời này trong những năm mà Ngài không được nhắc tới nữa (ngoại trừ
liên quan gia đình của
Chúa Giêsu). Truyền
thống nói rằng
Đức Giuse từ giã cõi đời trong vòng tay yêu thương
của Chúa Giêsu và Đức Maria, thế nên Ngài trở nên bổn mạng của những người
hấp hối, cầu bầu cho được ơn chết
lành.
Trong tác phẩm “Christ is Passing By”, Thánh
Josemaria Escriva cho biết: “Hẳn
là Đức
Giuse là người đầy ân sủng nên đã có thể hoàn tất nhiệm vụ nuôi dưỡng Con Thiên Chúa! Hẳn là Chúa Giêsu giống Đức Thánh
Giuse: cách làm việc,
cách nói năng, tính cách. Thực tế của Chúa
Giêsu cho thấy ánh mắt, cách ngồi bàn và bẻ bánh, sở thích dùng các vị trí hằng ngày để giáo huấn – nhất cử nhất động
đều phản ánh tuổi thơ và sự ảnh hưởng của Đức
Thánh Giuse. Không thể
bỏ qua bí ẩn
tinh tế này: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài là người nói giọng Israel, giống như giọng của
một người thợ mộc tên là
Giuse”.
Đức
Thánh Giuse được
nhiều vị thánh yêu mến.
Thánh Teresa Avila nói: “Theo kinh nghiệm của tôi, Đức Thánh Giuse giúp đỡ chúng ta trong mọi vấn đề. Tôi chưa
bao giờ cầu xin Ngài
điều gì mà
Ngài lại không
ban cho tôi”.
Thời
Cựu Ước, sau khi bị anh em bán
cho người Ai Cập, ông
Giuse được trọng
dụng và làm quan trong triều đình Pharaô. Khi nạn đói xảy ra khắp nơi và cả Ai Cập, dân chúng kêu xin thì
vua Pharaô bảo họ: “Cứ
đến với ông Giuse; ông bảo gì, các ngươi hãy
làm theo!” (St 41:55). Giáo Hội cũng dùng ý này để mời gọi các
tín nhân đến với Đức
Thánh Giuse khi cần
Ngài giúp đỡ: “Hãy
đến với Giuse!”.
Năm 1621, ĐGH Grêgôriô XV ấn định Lễ Đức Thánh
Giuse – Đức Phu Quân của Đức Mẹ (ngày
19-3) – được mừng
kính trong toàn thể
Giáo Hội. Năm 1870,
ĐGH Piô IX đặt Đức
Thánh Giuse là Bổn Mạng
Giáo Hội Hoàn Vũ.
Năm 1955, ĐGH Piô XIII thiết
lập Lễ Đức Thánh Giuse Lao Động là ngày 1-5 hằng năm.
TRẦM THIÊN THU (tổng hợp và chuyển ngữ)
Chào Tháng Năm
– 2019
|