NỮ TỲ VĨ ĐẠI
NỮ TỲ KHIÊM NHU TÍN THÁC TUÂN PHỤC
THÁNH
MẪU VĨ ĐẠI TRÀN ĐẦY THÁNH ÂN
Khiêm nhường, tín thác và tuân phục là ba nhân đức quan trọng và liên quan lẫn nhau, liên kết như “chiếc kiềng” cân bằng đời sống tâm
linh. Mỗi nhân
đức đều có tầm quan trọng riêng,
không hơn cũng chẳng
kém, như “chiếc
kiềng” không thể
thiếu bất cứ chân nào.
Trong ba nhân đức đó, đức tuân phục là nhân đức đặc biệt, quý giá
hơn cả lễ vật
(1 Sm 15:22; Tv 40:7; Tv 50:8-9; Tv 51:18; Hs 6:6). Người khiêm nhường tín thác thì sẵn sàng vâng lời – mối liên kết rất chặt chẽ. Đức Mẹ
là người rất
khiêm nhường và
hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, do đó Đức Mẹ cũng tuyệt đối tuân phục Thiên Chúa. Lễ Truyền Tin nói lên chiều kích đó. Đức tuân phục đặc biệt vì là
một trong ba lời khấn chủ
yếu của các tu sĩ, nhân đức này phải được dựa trên nền tảng vững vàng
là lòng khiêm nhường và niềm tin tưởng.
Tháng Ba thật
lạ lùng, còn vương vấn
Mùa Xuân mà lại mang sắc
màu Mùa Chay – đầy
gai nhọn và đinh sắc, tím rịm nỗi khổ đau của Đức
Kitô, thế nhưng lại
có niềm vui khởi
đầu Ơn Cứu Độ: Chúa
Cha trao ban Con Một cho nhân loại. Lễ Truyền Tin là Tin
Vui không chỉ riêng
cho Đức Maria mà còn
cho cả nhân loại. Nhờ sự kiện truyền tin
và nhờ lời “xin vâng”
của Đức Maria mà
chúng ta có Đấng
Em-ma-nu-en, Vị Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Khi cầu nguyện bằng
Kinh Mai Côi, với mầu nhiệm
thứ nhất Mùa Vui: Sứ
thần truyền tin cho Đức Maria, Giáo Hội dạy chúng ta cầu xin ơn biết sống khiêm nhường – nhân đức nền tảng của “tòa
nhà nhân đức”.
Thực
sự rất tuyệt vời, chỉ trong vòng nửa năm mà tin vui được nhân đôi: Mới trước đó là
tin vui cho vợ chồng ông
Da-ca-ri-a và bà Ê-li-da-bét (còn gọi
là I-sa-ve) với tin thụ
thai ngôn sứ Gioan Tẩy Giả,
và nay là tin vui cho Đức
Maria với tin thụ thai Đấng Cứu Thế. Tin vui
lớn dần, tin vui sau lớn hơn tin vui trước.
Quả thật, niềm vui ấy lan tỏa mau chóng,
bao phủ khắp nơi,
đầy ắp lòng người. Niềm vui như vỡ òa.
Và Giáo Hội nhắc nhớ:
“Khắp cả trần gian hãy biết rằng, Tin Mừng giải thoát
đã tràn lan” (Thánh Thi).
Thường
thì “phúc bất trùng
lai”, nhưng ở đây lại khác hẳn, bởi vì Tin Vui nối tiếp và nhân đôi. Đối với Tin Vui thứ nhất, chúng
ta có Thánh ca “Chúc Tụng”
(Benedictus) của ông Da-ca-ri-a (Lc 1:68-79). Đối với Tin Vui thứ nhì –
Tin Vui vĩ đại hơn,
chúng ta có Thánh ca “Ngợi
Khen” (Magnificat) của Đức Maria.
Cái gì cũng hết, dù điều tuyệt vời mà nói
hoài cũng nhàm chán và cũng chẳng
biết nói gì thêm. Nhưng chắc hẳn chẳng có bút
sách hoặc văn lực
nào có thể nói
đầy đủ về
Đức Maria – một Nữ Tỳ Vĩ Đại, một
Tuyệt Tác của
Thiên Chúa, một loại
kỳ hoa dị thảo đặc biệt nhất. Trí óc
phàm nhân không thể nào hiểu nổi chuyện “thụ thai mà còn
đồng trinh”, có so
sánh như “ánh nắng chiếu
qua tấm kiếng” thì cũng chỉ để hiểu được phần
nào thôi. Và càng khó hiểu
hơn về một thụ tạo mà lại trở thành Mẹ của Thiên Chúa, điều mà người chị họ Ê-li-da-bét
đã xác nhận và reo
vui: “Bởi đâu
tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc
1:43). Nhiệm mầu cao cả
và kỳ diệu vô
cùng!
Kinh Thánh cho biết từ thuở xa xưa, Đức
Chúa đã cho vua A-khát biết:
“Ngươi cứ xin Đức Chúa là
Thiên Chúa của ngươi
ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm
phủ hoặc trên chốn cao xanh” (Is 7:11). Thiên Chúa cho phép ông xin bất cứ điều gì, nhưng
ông lại không
dám xin chi cả. Ông
xác định: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa” (Is
7:12). Đó là cách sống
đức tin và khiêm nhường, tấm gương sáng
ngời để mỗi chúng
ta cần phải thường
xuyên “soi” mình xem dung nhan linh hồn thế nào để có thể kịp chấn chỉnh trước
khi quá muộn, đặc biệt
là trong dịp Mùa
Chay quý báu này.
Cảnh
báo là điều cần làm, cảnh báo vì còn yêu thương,
không cảnh báo là
bỏ mặc, không
còn yêu thương nữa.
Và rồi ngôn sứ I-sai-a đã nghiêm túc cảnh báo: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi
làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn
muốn làm
phiền cả Thiên
Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi
một dấu: Này
đây người
thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và
đặt tên là
Em-ma-nu-en” (Is 7:13-14). Lời cảnh báo nghiêm túc và thẳng thắn, nhưng vẫn kèm
theo lời hứa đầy
ắp yêu thương. Lòng thuông xót của Thiên Chúa thật bao la và kỳ diệu biết bao!
Dĩ nhiên đó cũng là lời cảnh báo đối với chúng ta, bởi vì chúng ta cũng chưa
sạch “máu nổi loạn” nên vẫn làm phiền Thiên Chúa, khoái những “sự lạ”, nhưng tính
tò mò lớn hơn niềm
tin. Đơn giản như khi đi đường, thấy
có gì “khác thường”
là người ta xúm lại xem rồi bàn tán rôm rả, thậm chí còn thêm đủ thứ “gia vị”. Biết bao người
đã và đang là “nạn
nhân” của “những cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”.
Tương tự, người ta
chỉ mong được thấy “sự lạ” ở nơi
này hoặc nơi kia, rỉ
tai nhau rồi ùn ùn kéo nhau đi. Xong rồi thôi, chính cuộc sống của những người
đó chẳng thấy có gì
thay đổi tích cực về tâm linh. Như thế chỉ là vô ích. Thậm chí có người còn nói thấy Chúa, thấy Mẹ, hoặc thấy “người
lạ” nào đó, muốn người
khác biết mình
là “thị nhân”
để “có tiếng” chứ đâu phải là muốn vinh danh Thiên Chúa?
Thật
vậy, nhiều người cho biết họ được
ơn này ơn nọ, rồi làm chứng đủ kiểu, nhưng có người tỏ ra như cuồng tín.
Đôi khi nghe kiểu nói của họ thì có vẻ làm chứng về mình hơn làm chứng về Chúa, thậm chí còn có dạng “không dám tin là thật” vì thấy “không ổn” chút nào. Kinh Thánh nói: “Ngươi
không được
phao tin đồn nhảm. Đừng làm chứng gian mà tiếp
tay với kẻ xấu”
(Xh 23:2). Thánh Phaolô cho biết: “Lạ gì đâu! Vì chính
Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy
có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó đội
lốt người phục vụ sự công chính. Chung cục,
chúng sẽ lãnh nhận hậu quả công việc chúng
đã làm” (2 Cr 11:14-15). Cẩn tắc vô ưu, vì cũng
liên quan niềm tin, nhưng đức tin trái ngược với
cuồng tín!
Hằng ngày, có nhiều “dấu lạ”
nhãn tiền mà lại không mấy ai thực sự lưu tâm,
hoặc là cố ý làm ngơ. Dấu lạ thật sao? Đúng vậy! Các dấu lạ đó minh nhiên, không hề xa lạ, đó chính là KHÔNG KHÍ –
thứ luôn rất cần thiết để chúng
ta hít thở từng giây mà
sống, cả ÁNH
SÁNG nữa, và
đặc biệt là
phép lạ THÁNH
THỂ hằng ngày
tái diễn trên
bàn thờ, chính
Chúa Giêsu vẫn hiện diện
sống động thực sự ở giữa chúng
ta, cụ thể là nơi
Nhà Tạm. Quen quá hóa
nhàm chăng?
Như chúng ta đã biết, đức vâng lời là nhân đức thể hiện lòng
khiêm nhường (khiêm
nhu, khiêm tốn, khiêm hạ). Vâng lời (tuân phục, thanh tuân) là lời khấn thứ nhất của các tu
sĩ, sau đó mới là lời khấn nghèo khó và khiết tịnh (có dòng còn thêm một số lời khấn khác).
Thánh Vịnh gia nói: “Chúa
chẳng thích
gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn
thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, con liền thưa: ‘Này
con xin đến!’. Trong sách
có lời chép về con rằng: con thích
làm theo thánh ý, và ấp
ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con”
(Tv 40:7-9). Điều này được thể hiện rõ nét
nơi Đức Mẹ, vì
Đức Mẹ cũng
là người ít
nói, biết được
gì thì cũng “hằng
ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19). Quả thật, im lặng là
vàng ròng, là ngọc quý. Vô
giá!
Trong lòng đấy ắp niềm vui, Thánh Vịnh gia bộc bạch: “Đức công
chính của Ngài,
con loan truyền giữa
lòng đại
hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có
ngậm miệng làm
thinh. Đức công
chính của Ngài,
con chẳng giữ riêng
lòng mình biết; nhưng
con đã nói lên đức trung tín và ơn cứu độ của Ngài, chẳng giấu giếm chi cùng
đại hội rằng
Ngài thành tín và yêu thương” (Tv
40:11). Điều này cũng
phải là quyết định của mỗi Kitô hữu. Biết hành động như vậy là hợp tác với Thiên Chúa: loan báo Tin Mừng, truyền bá lòng sùng kính Thánh
Tâm, truyền bá
Lòng Chúa Thương Xót, đồng
thời cũng là cố
gắng hoàn thiện
và đem Chúa đến
với người khác để họ khả dĩ nhận biết
Ngài để cũng
được Ngài cứu
độ.
Nhưng cũng nên lưu ý, bởi vì Thánh Phaolô cho biết: “Máu các con bò, con dê không
thể nào
xoá được tội lỗi.
Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô
nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy
Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý
Ngài, như Sách Thánh đã chép về con”
(Dt 10:4-7). Vì vâng lời,
cậu bé Sa-mu-en đã biết
chân thành thân thưa: “Người là Đức Chúa. Xin Người cứ làm điều Người cho là tốt” (1 Sm
3:18). Còn nhỏ mà
đã khôn ngoan như vậy
thì thật tuyệt vời.
Hằng ngày, ước
gì mỗi chúng
ta cũng biết sống đức
vâng lời mà cầu nguyện như vậy!
Vì là nhân đức quan trọng nên đức vâng lời cứ được lặp đi
lặp lại. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Trước hết,
Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn
thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích,
mà đó chính là những
thứ của lễ được dâng
tiến theo Lề Luật
truyền. Rồi Người nói: Này con đây,
con đến để thực
thi ý Ngài. Thế
là Người
bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý
đó, chúng ta được
thánh hoá nhờ
Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là
đủ” (Dt 10:8-10). Với tinh thần vâng lời tuyệt đối, Đức Mẹ
đã mau mắn nói lời “xin vâng”, vì ý Chúa chứ không vì ý riêng. Và chính
Đức Kitô cũng
hoàn toàn tuân phục, dù
Ngài cũng có sự giằng
co của nhân tính trước khi nhận “chén đắng”. Ngài vẫn cảm thấy sợ, nhưng quyết
tâm vâng lời chứ
không khước từ những
gì Chúa Cha đã trao.
Trong trình thuật Lc 1:26-38, Thánh sử Luca cho biết: Bà
Ê-li-sa-bét có thai được
sáu tháng thì Thiên Chúa sai sứ
thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã
thành hôn với một người
tên là Giuse, thuộc
dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ
ấy tên là Maria. Sứ thần vào
nhà trinh nữ và
nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”.
Nghe lời ấy, Thôn nữ Maria rất bối rối, và tự hỏi lời chào như
vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền trấn an: “Thưa
Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chị đẹp lòng
Thiên Chúa. Và này đây Chị
sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và
đặt tên là
Giêsu. Người sẽ nên
cao cả, và sẽ được gọi là Con
Đấng Tối Cao.
Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng
vua Đa-vít, tổ
tiên Người.
Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ
vô cùng vô tận”.
Vốn
dĩ hiền thục và theo bản tính e ngại phàm nhân, Đức Maria thắc mắc nên nhẹ nhàng thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ
xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Thế nhưng sứ thần quả quyết:
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ
rợp bóng trên Chị, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi
là Con Thiên Chúa. Kìa Cô Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Chị, tuy già rồi, mà cũng đang cưu
mang một người
con trai: Cô ấy
vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên
Chúa, KHÔNG CÓ GÌ LÀ KHÔNG THỂ
LÀM ĐƯỢC”. Ôi, thật
tuyệt vời, thật kỳ diệu!
Và như vậy, Đức Mẹ không
còn nghi ngờ và cũng
chẳng ngần ngại chi ráo trọi, rồi thưa ngay: “Vâng,
tôi đây là nữ
tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc
1:38). Một câu
nói đầy ắp sự
can đảm với tầm nhìn tương lại rộng lớn. Quả thật, không dễ gì mà có thể quyết định mau mắn với
đại sự như vậy. Đây là
động thái
quan trọng, chính
nhờ Đức Mẹ vui lòng
“xin vâng” mà Ngôi Hai nhập
thể để bắt đầu Chương Trình Cứu Độ: “Chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta”.
Sứ
vụ loan báo hỉ
tín đã đã hoàn thành, Tổng
thần Gáp-ri-en từ
biệt ra đi. Và Đức
Maria bắt đầu trang đời mới với trọng
trách mới và cũng
đầy gian khó.
Xin hết lòng tạ ơn Thiên Chúa xót thương
và tạ ơn Đức
Trinh Nữ Maria chấp nhận trọng trách với tinh thần vâng phục.
Đức
Maria là một Nữ Tỳ
nhưng trở nên vĩ đại vì được làm Thánh Mẫu Thiên Chúa, đồng thời là Nhà Tạm đầu tiên bởi vì Đức Mẹ là Người-mang-Thiên-Chúa (Theotókos,
God-Bearer). Ôi, thật diễm
phúc cho phàm nhân chúng ta, vì mỗi
khi đón nhận Thánh
Thể, chúng ta cũng thực sự trở nên
Nhà Tạm của Thiên
Chúa Ngôi Hai. Thật vậy, Thánh
Phaolô xác nhận rằng “chúng
ta là đền thờ của
Thiên Chúa hằng sống”
(2 Cr 6:16). Điều kỳ diệu không
chút mơ hồ: Được
làm con cái của Thiên
Chúa thật là diễm phúc, được làm con cái của Đức Mẹ thật là vui
sướng!
Lạy
Thiên Chúa toàn năng, vì công ích, xin Ngài cứ thực hiện những gì
Ngài muốn đối với
cuộc đời con, mặc dù có thể trái ý con, nhưng xin giúp
con luôn biết xin vâng
tuyệt đối và mau
mắn. Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, xin hướng dẫn và
nâng đỡ để
con luôn noi gương Mẹ, xin cầu thay nguyện giúp
cho mọi người và xin
giải cứu đất
nước Việt Nam nhỏ bé này. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất của
nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
|