PHẦN
PHỤ QUAN TRỌNG
(Lễ
Đức Thánh Giuse, Phu Quân Đức Mẹ
– 19 tháng Ba)
GIUSE
– DƯỠNG PHỤ THÂM TRẦM
LẶNG
LẼ ÂM THẦM LAO ĐỘNG, YÊU THƯƠNG
SỐNG
PHI THƯỜNG GIỮA ĐỜI THƯỜNG
GIUSE
CÔNG CHÍNH VÔ CÙNG KHÔN NGOAN
Phần
quan trọng là phần chính, phần không
thể thiếu. Đó là điều chắc
chắn. Còn phần phụ, tuy không là
chính nhưng cũng có những phần
phụ không thể thiếu, nghĩa là vẫn
thực sự quan trọng. Phần phụ quan trọng
đó chính là Đức Thánh
Giuse.
Thật
vậy, theo tiếng Do Thái, Giuse là יוֹסֵף
[Yosef],
và tiếng Hy Lạp là Ἰωσήφ
[Ioseph], có nghĩa là “thêm vào”
– tức là “phần phụ” mà
thôi. Ý nghĩa này thật phù hợp
với Đức Thánh Giuse, con ông Gia-cóp,
dòng dõi Thánh vương Đa-vít,
là Hôn phu của Đức Trinh Nữ
Maria, người nhận trọng trách làm
Dưỡng phụ của Chúa Giêsu trên
trần gian.
Thánh
tiến sĩ Têrêsa Avila (Teresa Sánchez de
Cepeda y Ahumada, 1515–1582, dòng Kín Cát
Minh) rất sùng kính Đức Thánh
Giuse, thánh nữ xác định rằng
Đức Thánh Giuse không bao giờ từ
chối điều gì mà bà cầu
xin vào ngày lễ kính Đức Thánh
Giuse – 19 tháng 3.
Nói
về Đức Thánh Giuse, Thánh tiến
sĩ Tôma Aquinô (1225–1274)
cho biết: “Một
số vị thánh được đặc ân
gia tăng sự bảo trợ của các ngài
đối với chúng ta khi ban cho chúng ta
những ơn đặc biệt trong một số
trường hợp khi chúng ta cần. Nhưng
Thánh Cả Giuse có quyền trợ giúp
chúng ta trong mọi lúc, mọi sự cần
thiết và mọi công việc”.
Còn Thánh Grêgôriô Nadariên
nhận định: “Chúa
đã làm cho Thánh Giuse trở nên
rạng ngời như được chiếu tỏa
bởi ánh mặt trời, với tất cả
ánh sáng và sự rực rỡ mà
các thánh sở hữu”.
Chúng
ta được biết rằng Đức Thánh
Giuse là người chồng và người
cha gương mẫu, nhưng ngài lại sống
rất khiêm nhường, trầm tĩnh, luôn
quên mình vì vợ con, vì người
khác, nêu cao tinh thần phục vụ, âm
thầm tan biến như muối hòa tan để
làm ngon mọi thứ nhưng chẳng ai nhớ
tới muối. Đức Thánh Giuse cũng
vậy, và ngài được tôn xưng
là Đấng Công Chính.
Điều
Thiên Chúa nói với ông Na-than liên
quan điểm Sinh và điểm Tử: “Khi
ngày đời của ngươi đã
mãn và ngươi đã nằm xuống
với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi
đứng lên kế vị ngươi, một
người do chính ngươi sinh ra, và
Ta sẽ làm cho vương quyền của nó
được vững bền. Chính nó sẽ
xây một nhà để tôn kính
danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của
nó vững bền mãi mãi. Đối
với nó, Ta sẽ là cha, đối với
Ta, nó sẽ là con. Nhà của ngươi
và vương quyền của ngươi sẽ
tồn tại mãi mãi trước mặt
Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững
bền mãi mãi” (2
Sm 7:4-5, 12-16).
Rất
ngắn gọn, nhưng trình thuật này
cho chúng ta biết về Thánh Ý Thiên
Chúa nhiệm mầu, mọi sự đã
được quan phòng và tiền định
rạch ròi. Ở đây, chúng ta hiểu
sự tiền định về Đức Thánh
Giuse, một người đầy quyền thế
nhưng lại không thích dùng quyền,
chỉ thích khiêm nhường, ưa thầm
lặng. Thật vậy, ngài tự hạ như
hạt muối hòa tan vào mọi thứ,
đến nỗi không còn ai nhận ra
muối. Ngài không nói gì nhưng
hành động cụ thể. Sống lặng
là cách sống khôn ngoan, vì Kinh
Thánh xác nhận: “Nếu
biết giữ thinh lặng, kẻ ngu cũng được
kể là người khôn ngoan; nếu biết
ngậm môi, kẻ đó được
coi là người thông hiểu” (Cn
17:28).
Quả
thật, đức tin của Đức Thánh
Giuse quá lớn, lớn đến nỗi ngài
chìm đắm trong Dòng Thác Thương
Xót nên Ngài không còn biết
nói gì nữa, chỉ biết xưng tụng
Thiên Chúa, như tác giả Thánh
Vịnh đã từng thốt lên: “Tình
thương Chúa, đời đời con ca
tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng
con rao giảng lòng thành tín của
Ngài. Vâng con nói: Tình thương
ấy được xây dựng tới thiên
thu, lòng thành tín Chúa được
thiết lập trên trời”
(Tv 89:2-3). Và mọi điều đã ứng
nghiệm như Thiên Chúa tuyên phán
từ ngàn xưa: “Ta
đã giao ước với người Ta
tuyển chọn, đã thề cùng Đa-vít,
nghĩa bộc Ta, rằng: Dòng dõi ngươi,
Ta thiết lập cho đến ngàn đời,
ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn
thế hệ”
(Tv 89:4-5).
Thiên
Chúa biết rõ mọi sự, mọi tâm
can, ai tốt hoặc xấu, cả những gì
sâu thẳm (Cv 1:24; Cv 15:8; Rm 8:27; 1 Cr 2:10). Thánh
Phaolô nói: “Không
phải chiếu theo Lề Luật mà Thiên
Chúa đã hứa cho ông Áp-ra-ham
và dòng dõi ông được thế
gian làm gia nghiệp, nhưng ông được
lời hứa đó vì đã trở
nên công chính nhờ lòng tin”
(Rm 4:13). Vì tin mà Tổ phụ Áp-ra-ham
được công chính hóa. Đức
Thánh Giuse cũng vì tin mà được
công chính hóa. Đó là hệ
quả tất yếu theo lời hứa của
Thiên Chúa, Đấng muôn đời
thành tín.
Tất
nhiên chúng ta cũng phải qua “hành
trình đức tin” vậy, vì Đức
Tin vô cùng quan trọng, Chúa Giêsu đã
chúc phúc: “Phúc
thay những người không thấy mà
tin!”
(Ga 20:29). Chúa Giêsu cũng dạy chúng
ta về cách sống đức tin bằng lời
cầu nguyện ngắn gọn, đơn giản
mà mạnh mẽ: “Lạy
Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”.
Thánh
Phaolô cho biết thêm: “Vì
tin mà người ta được thừa
hưởng lời Thiên Chúa hứa; như
thế lời hứa là ân huệ Thiên
Chúa ban không, và có giá trị
cho toàn thể dòng dõi ông Áp-ra-ham,
nghĩa là không phải chỉ cho những
ai giữ Lề Luật, mà còn cho những
ai có lòng tin như ông. Ông là
tổ phụ chúng ta hết thảy, như có
lời chép: Ta đã đặt ngươi
làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông
là tổ phụ chúng ta trước mặt
Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng,
Đấng làm cho kẻ chết được
sống và khiến những gì không có
hoá có. Mặc dầu không còn gì
để trông cậy, ông vẫn trông
cậy và vững tin, do đó ông đã
trở thành tổ phụ nhiều dân tộc,
như lời Thiên Chúa phán: Dòng
dõi ngươi sẽ đông đảo
như thế”
(Rm 4:16-18). Tấm gương của Tổ phụ
Áp-ra-ham thật là sáng ngời! Lời
giao ước của Thiên Chúa là tặng
phẩm hoàn toàn miễn phí, nhưng
lại hiệu quả và ích lợi cho
những ai thực sự có lòng tin tưởng.
Đức
tin của Tổ phụ Áp-ra-ham vô cùng
vĩ đại: Sẵn sàng ra đi theo lệnh
Chúa truyền, và cũng không ngại
hạ sát đứa con trai I-xa-ác duy nhất
của mình làm hy lễ dâng Thiên
Chúa (St 22:1-18). Dù có khó khăn
tới mức nào, đến nỗi có
lúc như tuyệt vọng, thế nhưng Tổ
phụ Áp-ra-ham vẫn một niềm tín
trung: “Ông
Áp-ra-ham đã chẳng mất niềm tin,
chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa
hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông
đã nên vững mạnh và tôn
vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn
xác tín rằng: điều gì Thiên
Chúa đã hứa thì Người cũng
có đủ quyền năng thực hiện.
Bởi thế, ông được kể là
người công chính”
(Rm 4:20-22).
Tổ
phụ Áp-ra-ham và Đức Thánh
Giuse là hai con người vĩ đại, son
sắt niềm tin tuyệt đối vào Thiên
Chúa ngay trong lúc dầu sôi lửa bỏng
nhất, tưởng như ở bước đường
cùng, thế nhưng các ngài vẫn
không hề so đo hoặc tính toán
thiệt hơn – dù chỉ thoáng qua
trong ý nghĩ.
Hôm
nay, mặc dù là “muộn màng”
cũng xin được mượn lời Thánh
Vịnh để chúc mừng Tổ phụ
Áp-ra-ham và Đức Thánh Giuse: “Phúc
thay người ở trong thánh điện, họ
luôn luôn được hát mừng
Ngài”
(Tv 84:5). Ước gì chúng ta cũng mau
trưởng thành tâm linh để khả
dĩ được công chính hóa, nhất
là trong Mùa Chay Thánh này – cũng
gọi là Mùa Thương Khó, vì
đây là cơ hội ngàn vàng!
Ít nói là tốt, dù người
đời không ưa người ít nói,
vì người ta cho rằng người lầm
lì là người khó chịu. Nhưng
thật ra, ít nói thì ít sai (về
lời nói), nói nhiều rất dễ lỡ
lời. Đức Thánh Giuse thật là
khôn ngoan vì ngài rất ít nói,
hầu như không nói gì. Ít nói
cũng là một cách ăn chay, vì
tịnh tâm là điều cần thiết
để sống Mùa Chay – sống tích
cực chứ không “theo phong trào”.
Tin
Mừng là trình thuật Lc 2:41-51a, đề
cập việc Con Trẻ Giêsu “thất lạc”
khi Thánh Gia đi trẩy hội đền thờ
Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua theo thông
lệ hằng năm, đồng thời cũng
cho thấy rõ nét về tính cách
trầm lặng của Đức Thánh Giuse:
Đức Mẹ có nói nhưng Đức
Giuse hoàn toàn im lặng. Rất có thể
ngài chỉ cười thôi.
Kinh
Thánh cho chúng ta biết rằng khi Con Trẻ
Giêsu được mười hai tuổi, cả
gia đình cùng lên đền thờ
Giêrusalem, như người ta thường làm
trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà
trở về, còn cậu bé Giêsu thì
ở lại Giêrusalem mà cha mẹ chẳng
hay biết. Ông bà cứ tưởng là
cậu về chung với đoàn lữ hành,
nên sau một ngày đường, mới
đi tìm kiếm giữa đám bà
con và người quen thuộc. Không thấy
con đâu, hai ông bà trở lại
Giêrusalem mà tìm.
Lễ
hội thì người đông như kiến,
biết đâu mà tìm. Nếu chúng
ta gặp trường hợp này thì sao?
Chắc hẳn vợ chồng sẽ “cắn
đắng” nhau, đổ lỗi cho nhau đã
không theo sát con cái, chồng trách
vợ “vô trách nhiệm”, vợ
trách chồng “vô tâm”. Mệt
hết sức! Thế nhưng cả Đức
Maria và Đức Giuse đều không nửa
lời trách nhau, ai cũng im lặng vì tự
biết nhận lỗi về mình, và cố
gắng tìm kiếm Con Trẻ.
Đến
ba ngày sau, hai ông bà mới tìm thấy
Con Trẻ trong Đền Thờ, đang ngồi
giữa các thầy dạy, vừa nghe họ,
vừa đặt câu hỏi. Ai nghe Cậu nói
cũng ngạc nhiên về trí thông minh
và những lời đối đáp của
Cậu. Một thiếu niên mới mười
hai tuổi mà làm sững sờ cả các
nhà thông thái. Ngạc nhiên chưa?
Chắc hẳn cha mẹ Ngài cũng ngạc
nhiên lắm. Nhưng Đức Maria và Đức
Giuse không hề “khoe” với ai về
điều này. Còn chúng ta thì
sao? Ôi thôi, khỏi nói! Con trẻ mới
lanh lẹ một chút đã tưởng
con mình là “thần đồng”,
nó biết cái gì là khoe rùm
beng, cả làng trên xã dưới đều
biết ráo trọi. Đúng là “đèn
nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã
hay” mà. Chảnh ghê đi!
Sau
khi tìm được Con Trẻ Giêsu, hai
ông bà đều sửng sốt, riêng
Đức Mẹ nói với Con Trẻ: “Con
ơi, sao con lại xử với cha mẹ như
vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây
đã phải CỰC LÒNG tìm con!”.
Ngài đáp: “Sao
cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết
là con có BỔN PHẬN ở nhà của
Cha con sao?”.
Ui da, ông bà cũng chẳng hiểu lời
Con Trẻ vừa nói. Phải vậy thôi,
phàm nhân sao mà hiểu nổi Thiên
Chúa chứ? Giả sử là chúng ta
thì chắc chắn còn ngớ ngẩn hơn
nhiều, chẳng khác chi “chú Tàu
nghe kèn”, vừa gãi đầu vừa
mắt chữ 0 và miệng chữ A. Lạ quá
mà!
Nhưng
nói là nói vậy thôi, chứ Con
Trẻ Giêsu vẫn ngoan ngoãn đi xuống
cùng với cha mẹ để trở về
Na-da-rét, Thánh Luca cho biết rằng Con Trẻ
Giêsu “hằng vâng phục các ngài”.
Là Con Thiên Chúa, nhưng khi chấp nhận
mặc xác phàm và sinh trong một gia
đình, Chúa Giêsu vẫn giữ trọn
đạo làm con đối với cha mẹ
theo nhân tính. Một bài học “nhớ
đời” cho chúng ta, vì không ai
lại không làm con của cha mẹ mình.
Chữ Hiếu rất quan trọng: “Thảo
kính cha mẹ”
(Tb 4:3; Hc 3:8), và cũng là giới răn
thứ tư trong Thập Giới (Xh
20:3-17; Đnl 5:7-21).
Kinh
nghiệm sống cho chúng ta biết rằng mặc
dù tình yêu vô hình, không thể
“đụng chạm” nhưng chúng ta
vẫn khả dĩ cảm nhận. Lạ quá
chừng!
Tình
yêu không lời là tình yêu quá
lớn, đến nỗi không thể diễn
tả bằng lời! Ít nói như Thánh
Giuse có nhiều lợi ích. Đơn giản
là khỏi “vướng víu”. Nói
nhiều thì sai nhiều. Lợi bất cập
hại. Người ít nói là người
có 8 “lợi ích” này: [1] Người
ít nói là người biết lắng
nghe, [2] Người ít nói là người
biết quan sát, [3] Người ít nói
là người suy nghĩ chín chắn, [4]
Người ít nói là người thân
thiện, [5] Người ít nói là
người làm việc nhiều, [6] Người
ít nói là người không nói
nặng người khác, [7] Người ít
nói là người bình tĩnh, [8]
Người ít nói là người có
óc sáng tạo.
Lạy
Thiên Chúa toàn năng, bụi-tro-con xin
cảm tạ Ngài luôn quan phòng và
tiền định mọi điều, dù có
những lúc con cảm thấy trái ý.
Con chân thành xin lỗi Ngài. Xin biến
đổi con nên mới, giúp con biết
noi gương thầm lặng của Đức
Thánh Giuse, biết quên mình mà dấn
thân sống tích cực, trọn niềm
tuân phục Thánh Ý Chúa và hết
lòng vì tha nhân. Xin giúp con nhận
ra Ngài nơi tha nhân, và xin cho những
ai gặp con cũng nhận ra Ngài. Xin Đức
Thánh Giuse giúp con nên giống ngài:
Nói ít, làm nhiều; xin luôn đồng
hành với con và luôn cầu giúp
nguyện thay. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử
Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân
loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|