HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN B
Am 7,12-15; Ep 1,3-14; Mc 6,7-13
CHỨNG
NHÂN GIÁ TRỊ HƠN THẦY DẠY
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG : Mc 6,7-13.
(7) Người gọi Nhóm
Mười Hai lại và bắt đầu sai đi
từng hai người một. Người ban cho các ông
quyền trừ quỷ. (8) Người chỉ thị cho
các ông không được mang gì đi đường,
chỉ trừ cây gậy ; không được mang
lương thực, bao bị, tiền giắt lưng ; (9)
được đi dép, nhưng không được
mặc hai áo. (10) Người bảo các ông: “Bất cứ
ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại
đó cho đến lúc ra đi. (11) Còn nơi nào
người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi
ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý
phản đối họ”. (12) Các ông đi rao giảng, kêu
gọi người ta ăn năn sám hối. (13) Các ông
trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho
nhiều người đau ốm và chữa họ
khỏi bệnh.
2. Ý CHÍNH
: Đức Giê-su sai 12 Tông
đồ đi thực tập truyền giáo. Người
chỉ thị cho các ông phải rao giảng Tin mừng
bằng lời nói và gương sáng : Phải liên kết
từng hai ngừơi thành một nhóm, sống siêu thoát khó
nghèo và đầy lòng cậy trông phó thác. Các ông đã vâng
lời ra đi thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng
Nước Thiên Chúa, xua trừ ma quỷ và xức dầu
chữa lành nhiều bệnh nhân.
3. CHÚ
THÍCH :
-C 7 : + Người gọi nhóm
Mười Hai lại :
Trước đây Đức Giê-su đã tuyển chọn
Nhóm Mười Hai, để các ông “ở với
Người và để Người sai các ông đi rao
giảng, với quyền trừ quỷ” (x. Mc 3, 13-14). + Sai
đi từng hai người một : Tông đồ
(A-pos-to-lus) nghĩa là “người được sai
đi”. Đức Giê-su sai Nhóm Mười Hai đi từng
hai người để nâng đỡ nhau và biểu
lộ sự hiệp nhất yêu thương là dấu
hiệu môn đệ đích thực của Người
(x. Ga 13,35).+ Ban cho các ông quyền trừ quỷ : Quỷ
(di-a-bo-los - nghĩa là kẻ vu khống), hoặc Xa-tan
(nghĩa là địch thủ), thường
được dùng để chỉ về một nhân
vật vô hình, chuyên nói dối và xúi giục loài người
phạm tội chống lại Thiên Chúa. Sứ mệnh
của Đức Giê-su là “tiêu diệt ma quỷ” (x. Dt 2,14),
xua trừ chúng ra khỏi người bị nhập (x. Mc
5,8.13). Hôm nay Người cũng ban cho các môn đệ
quyền trừ quỷ ( c 13) và sau khi trở về các ông
đã báo cáo với Người như Tin mừng Lu-ca ghi
lại như sau: “Thưa Thầy, nghe đến danh
Thầy thì cả ma quỷ cũng phải chịu
khuất phục chúng con” (x. Lc 10,17).
-C 8-9 : + Người chỉ thị cho
các ông không được mang gì đi đuờng: Nghĩa là các ông phải có phong cách
đơn giản khi đi truyền giáo. + Chỉ trừ cây
gậy : Được mang gậy là biểu
tượng quyền mục tử và là vật hộ thân khi
đi đường. + Không được mang
lương thực, bao bị, tiền giắt lưng:
Không mang theo lương thực, bao bị, tiền bạc
vật chất để biểu lộ lòng tín thác vào Chúa
quan phòng sẽ lo mọi sự cho mình. + Được đi
dép : Tin mừng Mác-cô cho đi dép (x Mc 6,9) đang khi
Tin Mừng Mát-thêu lại cấm đi giày hay cầm
gậy theo (x. Mt 10,10). Sở dĩ có sự khác nhau về
một vài chi tiết phụ này là tùy theo tác giả
đứng trên quan điểm văn hóa Hy Lạp hay Do Thái
khi viết Tin Mừng. + Không được mặc hai
áo: Người Do Thái khi đi đường
thường mặc hai áo : Áo trong và áo choàng ngoài. Áo choàng là
áo mặc ngoài để che nắng nóng ban ngày và làm mền
đắp ấm ban đêm. Đức Giê-su không cho các Tông
đồ mặc hai áo vì là cuộc hành trình truyền giáo
ngắn hạn nên việc mang hai áo không thực sự
cần thiết.
-C 10-11 :
+ Đã vào nhà nào thì cứ
ở lại đó cho đến lúc ra đi : Theo phong tục Đông Phương,
dân chúng rất hiếu khách. Do đó khi các Tông đồ
đã đến ở trọ nhà nào, thì phải ở
đó cho đến lúc ra đi. Nếu tự ý đổi
chỗ ở sẽ làm cho chủ nhà buồn lòng và các ông
sẽ bị đánh giá là người “trọng phú khinh
bần”. + Nơi nào người ta không đón tiếp và nghe
lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân
để tỏ ý phản đối họ : Giũ
bụi chân là một cử chỉ người Do Thái
thường làm khi đi từ miền đất của
dân ngoại trở về miền đất của Do thái.
Cử chỉ giũ bụi chân biểu lộ sự
tuyệt giao vì dân Do Thái bị cấm tiếp xúc với dân
ngoại. Ở đây giũ bụi chân làm bằng
chứng họ đã từ chối Tin Mừng
được loan báo.
-C 12-13 :
+ Đi rao giảng, kêu gọi
người ta ăn năn sám hối : Sám hối là việc phải làm
trước tiên để dọn tâm hồn đón nhận
ơn cứu độ. Khi đi thực tập truyền
giáo, các Tông đồ mới chỉ được
Đức Giê-su trao nhiệm vụ kêu gọi người
ta ăn năn sám hối, giống như Gio-an Tẩy
Giả đã làm (x Mt 3,2). + Các ông trừ được
nhiều quỷ : Các Tông đồ đã trừ
được nhiều quỷ nhân danh Đức Giê-su và
nhờ quyền năng của Người. Tuy nhiên có
lần các ông không trừ được quỷ vì các ông
không mạnh bằng lòai quỷ dữ đó (x. Mc 9,17-18).
Các ông chỉ trừ được chúng do quyền năng
của Đức Giê-su ban cho nhờ cầu nguyện và
ăn chay (x. Mt 17,21). + Xức dầu cho nhiều
người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh
: Xức dầu là cách chữa bệnh phổ
biến thời Đức Giê-su. Có những loại
dầu trị bá chứng được dùng để
chữa mọi thứ bệnh thông thường. Dụ
ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu cho thấy ông ta cũng
dùng dầu và rượu để chữa vết
thương cho người gặp nạn (x. Lc 10,34).
Ở đây, việc xức dầu còn mang tính bí tích nữa
như thư của thánh Gia-cô-bê dạy : “Ai trong anh em ốm yếu ư ? Người ấy
hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến.
Họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi
xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng
tin sẽ cứu người bệnh. Người ấy
được Chúa nâng
dậy, và nếu đã phạm tôi, thì sẽ
được Chúa thứ tha” (x. Gc 5,14-15).
4. CÂU
HỎI : 1) Đức Giê-su tuyển chọn Nhóm
Mười Hai nhằm mục đích gì ? 2) Tại sao
Đức Giê-su lại sai từng hai người đi
truyền giáo ? 3) Quỷ hay Xa-tan ám chỉ ai ? Đức Giê-su
có sứ vụ gì đối với ma quỷ ? 4)
Đức Giê-su đã ra lệnh cho các Tông đồ
phải làm gì và các ông đã thi hành thế nào ? 5) Đức
Giê-su chỉ thị cho các Tông đồ được mang
và không được mang theo những gì khi đi truyền
giáo ? Tại sao ? 6) Lý do có sự khác biệt trong các chỉ
thị của Đức Giê-su giữa Tin Mừng Mác-cô và
Mát-thêu ? 7) Tại sao các ông chỉ nên ở trọ trong
một nhà và không được dời từ nhà này sang nhà
khác ? 8) Việc giũ bụi chân lại khi gặp thành không
tiếp nhận lời các ông giảng dạy có ý nghĩa
thế nào ? 9) Tại sao trước hết các ông phải
kêu gọi ngừơi ta ăn năn sám hối ? 10) Do
đâu mà các Tông đồ khử trừ được
nhiều quỷ ? 11) Tại sao có lần các ông không trừ
được một quỷ câm ? Theo Đức Giê-su thì muốn
trừ được lọai quỷ này cần phải có
điều kiện nào ? 12) Tại sao Đức Giê-su
truyền cho các Tông đồ xức dầu để
chữa bệnh ? Thánh Gia-cô-bê dạy gì về bí tích Xức
Dầu bệnh nhân ?
II. SỐNG
LỜI CHÚA :
1. LỜI
CHÚA : Các ông trừ được nhiều quỷ, xức
dầu cho nhiều người đau ốm và chữa
họ khỏi bệnh (Mc 6,13).
2. CÂU
CHUYỆN VÀ SUY NIỆM :
1)
TẠI SAO PHẢI SỐNG SIÊU THOÁT KHI ĐI TRUYỀN GIÁO?
Người
ta kể rằng: có một thanh niên muốn từ bỏ
mọi sự thế gian để sống cuộc
đời tu trì. Anh quyết định vào trong một khu
rừng vắng để sống ẩn tu trong một
chiếc lều tạm. Hành trang duy nhất anh mang theo là
chiếc áo vải thô để mặc khi đi khất
thực hằng ngày như các tu sĩ thời đó.
Một
ngày kia, anh rất buồn khi thấy chiếc áo thô anh phơi
ở bờ sông đã bị lũ chuột đến
cắn nát. Anh đành phải vào trong làng xin một
chiếc áo thô khác. Nhưng rồi chiếc áo thứ hai này
cũng cùng chung số phận do bị chuột cắn. Anh
liền nghĩ ra cách phải nuôi mèo để bảo
vệ chiếc áo. Nhưng rồi, khi có mèo mỗi ngày anh
lại phải lo thêm phần ăn cho mèo để nó
đuổi chuột.
Ngày
ngày đeo bị đi khất thực, anh cảm thấy
mình như một gánh nặng cho dân làng. Nghĩ thế, anh
đã cố gắng tiết kiệm tối đa để
dành tiền mua thêm một con bò để khỏi phải đi
xin ăn. Nhưng khi có bò rồi thay vì đi khất
thực hằng ngày anh lại phải đi kiếm cỏ
cho bò ăn. Việc chăn nuôi bò ngày càng phát triển
khiến anh không còn thời giờ để cầu
nguyện tối sớm như trước. Rồi anh
phải thuê thêm người đi cắt cỏ để
nuôi đàn bò. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang
sơ dần biến thành một trang trại rộng
lớn. Do đàn bò ngày một sinh sôi nảy nở nên anh
phải thuê thêm nhân công cho trang trại. Con người ban
đầu muốn từ bỏ mọi sự để
trở thành một tu sĩ, nay đã trở thành một ông
chủ trang trại nuôi bò sữa lớn.
Có
tiền của và tài sản to lớn, anh lại muốn có
thêm người bạn đời để sớm hôm chia
sẻ gánh nặng công việc. Anh đã lấy vợ sinh
con và trở thành một người chồng, người
cha trong một gia đình như bao người khác. Thế
là anh đã đánh mất lý tưởng tu trì ban
đầu chỉ vì muốn bảo vệ một chiếc
áo vải thô.
** SUY NIỆM: Ba kẻ thù nguy
hiểm của loài người.
Ma
quỷ thường tỏ ra khôn ngoan khi cám dỗ loài
người từng bước, giống như nó đã
cám dỗ nguyên tổ A-đam E-và khi xưa. Cũng vậy,
câu chuyện trên cho thấy một người ban
đầu có thiện chí muốn đi theo lý tưởng tu
trì cao đẹp, nhưng khi bắt đầu bận tâm lo
làm ăn kinh tế, anh đã không hứng thú với
việc cầu nguyện và suy niệm, là hai yếu tố
giúp anh ta trung thành với lý tưởng tu trì. Rồi xác
thịt có đặc điểm “được
đằng chân, lân đằng đầu”: Một khi thân
xác đã được hưởng thụ các tiện nghi
vật chất thì sẽ ngày một gia tăng nhu cầu
muốn được thỏa mãn thêm các tiện nghi khác.
Như vậy lòng tham lam tiền bạc chính là nguyên nhân làm
cho người ta ham hưởng thụ các tiện nghi và
dần dần đánh mất đi lý tưởng cao
đẹp. Vì thế Đức Giê-su đã chỉ thị
cho các tông đồ phải sống siêu thoát để dễ
dàng chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước
Trời.
2) THIÊN
CHÚA THƯỜNG HÀNH ĐỘNG QUA LOÀI NGƯỜI:
Vào
một buổi sáng mùa đông, một người đàn
ông đi ngang qua một ông lão ngồi ăn xin trên vỉa
hè tuyết rơi lất phất. Ông lão run lên từng
cơn vì trời lạnh và bụng đói. Nhìn thấy ông
lão ăn xin, người đàn ông cảm thấy
thương hại liền thưa với Thiên Chúa:
“Lạy Chúa, tại sao Chúa lại không làm gì để giúp
đỡ cho lão ăn mày đáng thương này?” Và ông
đã nghe Thiên Chúa trả lời: “Ta đã làm rồi”.
Ông
ta lại thưa với Chúa: “Phải chăng việc Chúa
làm có vẻ như không làm ?”.
“Đúng
thế”, Chúa đáp.
Ông
ta lại hỏi: “Nhưng Chúa giúp lão ăn mày này bằng
cách nào?”
Chúa
đáp: “Ta đã tạo dựng nên con và Ta muốn con hãy
thay Ta mà giúp đỡ cho người anh em nghèo khó này
đó”.
** SUY NIỆM:
-
Chúa Giê-su đã chọn lựa các môn đệ, huấn
luyện họ trong một thời gian và sai họ đi
thực tập việc truyền giáo noi gương
Người.
-
Người đòi các ông phải có nếp sống siêu
thoát: “Không được mang gì đi đường,
chỉ trừ cây gậy”. Gậy là biểu tượng vai
trò mục tử và là vật hộ thân khi đi
đường; “Không được mang lương
thực, bao bị, tiền giắt lưng” để
biểu lộ lòng tín thác vào Chúa quan phòng; “Được
đi dép” là nhu cầu tối thiểu, “nhưng không
được mặc hai áo” do không cần thiết, vì
việc truyền giáo chỉ vài ba ngày.
-
Người muốn các ông thể hiện dấu chỉ
của người môn đệ đích thực là yêu
thương hiệp nhất khi sai các ông đi từng nhóm hai
người một (x. Mc 6,7) và đi đến với
mọi người không phân biệt Do thái hay dân ngoại,
nô lệ hay tự do, giàu có hay nghèo khó…
-
Các ông đã đi rao giảng, kêu gọi người ta
ăn năn sám hối (x. Mc 6,12) và đã làm chứng cho Chúa
bằng việc: xua trừ nhiều quỷ, xức dầu
chữa bệnh cho nhiều người đau ốm (x. Mc
6,13).
3)
BẠN CHÍNH LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA:
Cuộc
chiến tranh trên bán đảo Triều tiên trước
đây là một cuộc chiến tàn khốc. Một ngôi
làng nhỏ rơi vào dưới làn đạn của trọng
pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công giáo. Bên ngoài nhà
thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một
bức tượng Trái Tim Chúa Giê-su. Tuy nhiên, sau cuộc
chiến thì bức tượng đã bị bom đạn
phá phá hủy thành nhiều mảnh vung vãi trên mặt
đất. Còn bàn tay bức tượng thì hoàn toàn đã bị
biến mất.
Một
nhóm lính Mỹ đã giúp vị linh mục thu thập
những mảnh vụn của bức tượng và
cẩn thận lắp ráp lại pho tượng như
cũ. Riêng hai bàn tay bức tượng bị biến
mất thì họ đề nghị nhờ thợ điêu
khắc đến làm lại bàn tay khác. Nhưng vị linh
mục lại từ chối và nói: “Chúng ta hãy cứ
để pho tượng không có bàn tay, và dưới chân
đế của bức tượng sẽ để hàng
chữ như sau: Chính bạn là đôi tay của Chúa”.
** SUY NIỆM : Chính bạn là
đôi tay của Chúa:
Quả
thật, nhiều khách đến viếng thăm ngôi nhà
thờ đổ và bức tượng không bàn tay đã
hiểu được ý nghĩa của câu nói trên: Giờ
đây tuy Đức Giê-su không có bàn tay nhưng Người
muốn mỗi tín hữu chúng ta hãy cho Người
mượn đôi bàn tay để nâng đỡ những
anh em tội lỗi được đứng dậy,
băng bó những vết thương đau, chia sẻ
cơm áo vật chất cho người nghèo đói;
Người muốn dùng bàn chân của chúng ta để
đi tìm những con chiên lạc mang về đoàn chiên
Hội Thánh; Người muốn chúng ta dùng đôi tai
để lắng nghe và cảm thông với những
người bất hạnh; Người muốn chúng ta
dùng miệng lưỡi để động viên những
kẻ khốn cùng, giúp họ luôn tín thác vào sự quan phòng
đầy yêu thương của Chúa.
4) LOAN
BÁO TIN MỪNG BẰNG CUỘC SỐNG CHỨNG NHÂN:
Cô
SO-PHI BÉC-ĐĂNG-CA (Sophie Berdanska) là một tín hữu Công
giáo vừa có tài giáo dục trẻ thơ lại vừa có
đức tin mạnh mẽ. Một hôm cô được
nhận vào làm gia sư trong gia đình Méc-tơn (Merston) giàu
có nhưng lại theo Do thái giáo. Công việc chính của cô
là dạy kèm cho năm đứa con mới bị mồ
côi mẹ. Ngày đầu tiên, khi biết So-phie là
người Công giáo, ông Méc-tơn đã cấm cô giảng
đạo cho mấy đứa con của ông và cô đành
miễn cưỡng chấp nhận. Buổi tối hôm
ấy, trong căn phòng riêng dưới tầng hầm, sau
khi đọc kinh tối xong, So-phie đã viết lời
cầu vào một mảnh giấy nhỏ, xếp gọn
rồi nhét vào trong cái hộp nhỏ xíu gắn phía sau
chiếc huy chương hình thánh giá. Đây là kỷ vật
mà người cha thân yêu đã tặng cô trước khi ông
chết, với lời trăn trối cô phải chu toàn
sứ vụ làm chứng cho Chúa mọi lúc mọi nơi.
Từ ngày cha chết, So-phie luôn đeo chiếc huy
chương để nhắc cô về sứ vụ
truyền giáo phải thực hiện dù trong hòan cảnh
không thuận lợi.
Từ
ngày được cô giáo So-phie chăm sóc dạy dỗ,
lũ trẻ nhà Méc-tơn ngày càng trở nên ngoan ngoãn và
chăm chỉ học hành khác hẳn lúc trước. Chúng
quí mến và coi cô như bà mẹ thứ hai. Rồi một
ngày kia, tai nạn lần lượt đổ xuống nhà
Méc-tơn: Trước tiên là cô bé út Na-ta-cha bị sốt
cao khiến ông Méc-tơn rất lo lắng. Ông vội mang
con đến bệnh viện cấp cứu. Trong thời
gian này, cô So-phie đã luôn túc trực bên giường
bệnh để chăm sóc đứa bé. Rồi
đến lượt hai đứa khác cũng bị lây
bệnh và cũng được cô giáo tận tình chăm
lo đến khi cả ba anh em hoàn toàn bình phục. Sau cùng
chính cô So-phie lại ngã bệnh ! Đây là hậu quả
của những ngày vất vả chăm sóc bệnh nhân.
Sau hai tuần lễ liệt giường, các bác sĩ
đành bó tay không thể chữa cô khỏi bệnh. So-phie
đã từ giã cuộc đời trong sự tiếc
thương vô hạn của cả gia đình Méc-tơn.
Trước khi lìa đời, Sophie đã tặng chiếc
huy chương hình thánh giá cho Na-ta-cha là cô học trò bé
nhỏ của cô.
Thấm
thoát đã đến ngày giỗ đầy năm của
So-phie. Hôm ấy cả gia đình Méc-tơn dậy sớm
và cùng đi nhà thờ dự lễ cầu nguyện cho cô.
Tại sao có sự kiện lạ lùng này? Số là sau khi
So-phie chết được một tuần, ông Méc-tơn
đến thăm các con lúc đó vẫn đang ưu
sầu thương nhớ cô gia sư mới chết. Tình
cờ ông thấy chiếc huy chương trong tủ kính.
Tò mò cầm lên xem, ông mở hộp nhỏ phía sau chiếc
huy chương, lấy ra một mẩu giấy và đọc
thấy hàng chữ như sau: “Lạy Chúa, trong nhà Méc-tơn
này, con đã bị cấm nói về Chúa với lũ
trẻ. Vậy xin Chúa giúp con nói với chúng bằng hành
động khiêm nhường yêu thương và phục
vụ. Con hy vọng gia đình này có ngày sẽ tin vào Chúa và
cũng được hưởng ơn cứu độ
giống như con”. Ông Méc-tơn rất xúc động khi
đọc những hàng chữ này. Ông trao cho các con cùng
đọc và chúng cũng xúc động như ông. Rồi
cả gia đình Méc-tơn đã đến xin học giáo
lý tại một nhà thờ công giáo gần nhà và đã
được nhận phép Rửa Tội nhập đạo
công giáo vào lễ Đêm Vọng Phục Sinh năm đó.
** SUY NIỆM: Chứng nhân có giá
trị thuyết phục hơn thầy dạy:
Đức
Thánh Cha Phao-lô VI đã nhấn mạnh giá trị của
đời sống chứng nhân trong việc loan báo Tin
Mừng như sau: “Người thời nay tin vào các
chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin
vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy cũng là
những chứng nhân”. Chỉ có các hành động yêu
thương kèm theo lời giảng mới có sức
thuyết phục con người thời nay tin theo
Đức Giê-su.
Mỗi
tín hữu hôm nay cần gắn bó với Chúa Giê-su như
cành nho tháp nhập vào thân cây nho. Vì nếu không có ơn Chúa
giúp, chúng ta sẽ không thể chu tòan sứ vụ làm chứng
cho Chúa được (x Ga 15,5). Cần tập nhẫn
nhịn chịu đựng và biết quảng đại
tha thứ các xúc phạm của tha nhân, luôn nghĩ
đến người khác và phục vụ họ trong tinh
thần khiêm tốn và yêu thương, sẵn sàng chấp
nhận thua thiệt để được mối
lợi là đưa được nhiều người về
làm con Chúa như thánh Phao-lô đã viết: “Vì vậy tôi
cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối,
khi bị sỉ nhục, họan nạn, bắt bớ,
ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi
mạnh” (2 Cr 12,10).
3. THẢO
LUẬN : 1) Bạn có kinh nghiệm gì về việc
truyền giáo bằng đời sống chứng nhân bác ái
không ? 2) Trong những ngày này, mỗi người chúng ta
sẽ giới thiệu Chúa cho bạn bè và người thân
chưa biết Chúa thế nào ?
4. LỜI
CẦU
LẠY
CHÚA GIÊ-SU, Xin cho chúng con trở thành khí cụ bình an của
Chúa, cho chúng con luôn chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa
bằng một lối sống quên mình vị tha, dấn
thân hy sinh và khiêm nhường phục vụ tha nhân cách chân
thành. Nhờ đó, người ngòai sẽ nhận biết
tôn thờ và tin theo Chúa để được
hưởng ơn cứu độ đời đời
cùng với chúng con.- AMEN.
LM
ĐAN VINH - HHTM
|