HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT LỄ
LÁ A
- KIỆU LÁ : Mt 21,1-11
-THÁNH LỄ : Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Mt 27,11-54
CON ĐƯỜNG VINH QUANG NGANG QUA THẬP GIÁ
I. HỌC LỜI CHÚA
1A. TIN MỪNG KIỆU
LÁ : Mt
21,1-11
(1) Khi thầy trò đến gần thành Giê-ru-sa-lem
và tới làng Bết-pha-ghê, phía núi
Ô-liu, Đức Giê-su sai hai môn đệ (2) và bảo
: “Các anh đi vào làng trước mặt
kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ
đang cột sẵn đó, có con lừa
con bên cạnh. Các anh tháo dây ra và dắt về
cho Thầy. (3) Nếu có ai nói gì với các
anh, thì trả lời là Chúa cần đến
chúng. Người sẽ gởi lại ngay. (4)
Sự việc đó xảy ra như thế để
ứng nghiệm lời ngôn sứ : (5) Hãy
bảo thiếu nữ Xi-on : Kìa Đức Vua
của ngươi đang đến với ngươi,
hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa
con, là con của một con vật chở đồ”. (6) Các môn đệ ra đi và làm
theo lời Đức Giê-su đã truyền. (7) Các ông dắt lừa
mẹ và lừa con về, trải áo choàng
của mình trên lưng chúng, và Đức
Giê-su cỡi lên : (8) Một đám người
rất đông lấy áo mình trải xuống
mặt đường, một số khác lại
chặt nhành chặt lá mà rải lên lối
đi. (9) Đám đông, người đi trước,
kẻ theo sau, reo hò vang dậy : “Hoan hô Con vua Đa-vít
! Chúa tụng Đấng ngự đến nhân danh
Đức Chúa ! Hoan hô trên các tầng trời”.
(10) Khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, cả thành
náo động, và thiên hạ hỏi nhau : “Ông này
là ai vậy ?” (11) Đám đông trả lời
: “Ngôn sứ Giê-su, người Na-da-rét, xứ
Ga-li-lê đấy”.
1B. TIN MỪNG TRONG THÁNH LỄ : Mt 27,11-54
2. Ý CHÍNH PHỤNG VỤ CN LỄ LÁ
:
Phụng vụ CN Lễ Lá gồm hai phần :
- Phần đầu lễ, bài Tin Mừng diễn tả
cuộc khải hoàn của Đức Giê-su như một ông
vua ngồi trên lưng lừa khải hoàn vào thành
Giê-ru-sa-lem, giữa những tiếng hoan hô tưng bừng
của mọi người : ” Hoan hô con Vua Đa-vít ! Chúc tụng
Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa ! Hoan
hô trên các tầng trời”.
- Nhưng rồi đến bài Tin mừng trong thánh lễ
thuật lại buổi xử án Đức Giê-su và cuộc
khổ hình của Người, khi phải vác cây thập giá
lên Núi Sọ, chịu đóng đinh giữa hai tên trộm
cướp như một kẻ tội đồ. Người
vô tội nhưng đã chịu hình phạt thập giá
đau thương nhục nhã của một tử tội
để đền tội thay cho mọi người chúng
ta.
3. CHÚ THÍCH :
- C 1-6 : + Thầy trò đến gần
Giê-ru-sa-lem : Theo Tin Mừng Gio-an (x Ga 12,1), sáu ngày
trước lễ Vượt Qua, Đức
Giê-su tới Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem khỏang gần
3 cây số vào buổi chiều, và thầy trò
đã đến ở trọ qua đêm tại
Bê-ta-ni-a trong nhà ba chị em Mác-ta Ma-ri-a và
La-da-rô. + Tới làng Bết-pha-ghê : Giữa
Bê-ta-ni-a và Giê-ru-sa-lem có làng Bết-pha-ghê,
nằm dưới chân núi Ô-liu về phía
Đông. + Sẽ thấy ngay một con lừa mẹ
đang cột sẵn đó… : Câu này nói
lên tính siêu việt nơi con người Đức
Giê-su: Ngài có cái nhìn thấu suốt không
gian thời gian, thấu suốt tâm can con người
(x. Mt 9,4; Lc 7,39-40). + Một con lừa mẹ đang
cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh
: Chỉ Tin Mừng Mát-thêu mới nói
đến con vật là lừa mẹ và lừa
con. Còn ba Tin Mừng kia chỉ nói đến một
con lừa tơ chưa một lần sử dụng,
như dành riêng cho công việc linh thánh này. +
“Chúa cần đến chúng” : Chủ lừa
chắc là chỗ quen biết trước nên
Đức Giê-su căn dặn môn đệ trả
lời như vậy. Từ “Chúa” ở
đây ám chỉ ông chủ lừa này đã tin
Người là Đấng Thiên Sai.
- C 7-9 : + Một đám người
rất đông lấy áo mình trải xuống
mặt đường : Dân chúng ở
đây phần lớn là những người
từ xứ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt
Qua. Họ nghỉ trong các quán trọ trên đường
vào Thành, hoặc tạm trú trên sườn
núi Cây Dầu. Những người này phấn
khởi ra đón vị Vua Thiên Sai mà họ hy
vọng sẽ giúp họ chống lại ách thống
trị của ngoại bang. Họ lấy áo lót
đường và chặt cành cây Ô-liu trải
trên lối đi để bày tỏ lòng trọng
kính Đức Giê-su như một vị Vua Thiên Sai
theo phong tục Cận Đông thời bấy giờ.
+ Con vua Đa-vít : Dân chúng đã tin Đức
Giê-su là Đấng Thiên Sai, là “Con Vua Đa-vít”
khi họ thấy Người làm cho hai người
mù được sáng mắt (x. Mt 20,30), và
truyền cho La-da-rô chết bốn ngày sống lại
(x. Ga 11,45). Đó là dấu chỉ thời
đại Thiên Sai đã bắt đầu (x. Is
29,18-19; 25,7-9). + Hoan hô : Dân chúng nô nức theo
sau và phấn khởi hoan hô Người bằng
lời hoan hô được ghi trong Thánh Vịnh
118 (x. Tv 118,25-26).
4. HỎI ĐÁP :
- HỎI 1 : Đức Giê-su lên
Giê-ru-sa-lem mấy lần trong đời của Người
?
ĐÁP : Đọc Tin Mừng Mát-thêu, ta có
cảm tưởng Đức Giê-su chỉ lên
Giê-ru-sa-lem một lần duy nhất trong cuộc sống trần
gian. Nhưng thực ra, Người đã lên Đền
thờ ít là 5 lần quan trọng : Lần 1 khi
mới sinh được 40 ngày (x. Lc 2,22-24). Lần
2 năm 12 tuổi, trẻ Giê-su theo cha mẹ lên Đền
thờ (x. Lc 2,42). Lần 3,4,5 : Trong gần 3 năm rao
giảng Tin Mừng, mỗi năm Đức Giê-su
đều lên Đền thờ dự lễ Vượt
Qua (x. Ga 2,13; 5,1; 12,12), và vào nhiều lễ khác (x.
Ga 7,10.14; 10,22-23).
- HỎI 2 : Tại sao Người không
cưỡi ngựa mà lại dùng lừa ?
ĐÁP : Đức Giê-su ngồi trên lừa
con chưa mang ách và chưa ai cưỡi cho thấy
Người là Đấng Thiên Sai. Vì lừa
mẹ ám chỉ dân Do thái đã từng
mang ách của Luật Mô-sê (x. Cv 15,10), còn lừa
con ám chỉ dân ngoại chưa từng mang ách,
giờ đây sẽ được mang ách êm ái
và gánh nhẹ nhàng của Đức Ki-tô
(x. Mt 11,29-30). Người cưỡi trên mình lừa
thay ngựa để nói lên sự khiêm tốn
và hiếu hòa của Vua Thiên Sai. Bên Do thái, các
bậc vua chúa quan quyền thường dùng lừa
thay vì dùng ngựa. Như hoàng tử Áp-sa-lon
đã chết thảm khi đang cưỡi lừa
(x. 2 Sm 18,9).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Kìa Đức
Vua của ngươi đang đến với ngươi,
hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Mt 21,5).
2. CÂU CHUYỆN :
1) ĐÁP LẠI TÌNH THƯƠNG TỘT
ĐỈNH CỦA CHÚA GIÊ-SU :
Vào một ngày Chúa Nhật nọ, BOB lái
xe đưa vợ đi mua sắm một số
đồ cần dùng. Hai vợ chồng bàn
nhau vào một tiệm cầm đồ bình dân
để tìm mua hàng rẻ. Bà chủ tiệm
chỉ cho họ một số hàng quá hạn cần
thanh lý. Bà vợ của BOB cầm lên xem một
cây Thánh giá đã cũ, rồi ghé tai chồng
nói nhỏ: “Đây là cây Thánh giá bằng
bạc đắt tiền mà sao bà chủ tiệm
lại để giữa các món hàng rẻ
tiền này ?” Sau đó, hai vợ chồng
đã mua được cây Thánh giá ấy
với giá chỉ một đôla ! Về đến
nhà, BOB liền mang cây Thánh giá ra lau chùi sạch
sẽ. Một lát sau, cây Thánh giá cũ kia
đã trở nên bóng lộn và giá trị
đã tăng lên cả trăm đôla ! Rồi BOB trân
trọng đặt cây Thánh giá kia lên bàn.
Sau đó cậu con trai của BOB đi học giáo
lý về. Cậu chăm chú nhìn cây Thánh giá
và tự nhiên hai giọt nước mắt
từ từ lăn trên gò má. BOB rất ngạc
nhiên trước thái độ của con trai và
hỏi cậu nguyên nhân tại sao khóc như thế ? Bấy
giờ cậu bé trả lời như sau : “Thưa
ba, hôm nay ở nhà thờ con học giáo lý
về cây Thánh giá của Chúa Giê-su. Con biết
Chúa Giê-su vì yêu thương nhân loại, nên đã
sẵn lòng chịu chết trên cây Thánh giá,
để đền tội thay cho chúng ta. Vì thế
khi nhìn thấy cây Thánh giá này, con liền
nghĩ đến tình thưong của Chúa thật
quá lớn lao, và dù con đã cố kìm
nén lại mà tự nhiên nước mắt
cứ chảy ra !”.
2) MỖI NGƯỜI ĐỀU GÓP PHẦN
VÀO VIỆC ĐÓNG ĐINH CHÚA GIÊ-SU :
Danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế
kỷ 17, đã để lại nhiều bức tranh nổi
tiếng, trong đó nổi tiếng nhất là bức tranh
"Ba cây thập giá".
Chiêm ngưỡng tác phẩm, hầu như ai cũng chú
ý vào ba cây thập giá ở trung tâm : giữa hai cây thập
giá của hai tên gian phi, thập giá của Chúa Giê-su đã nổi
bật. Dưới chân thập giá là một đám đông
mà gương mặt nào cũng biểu lộ sự hận
thù ganh ghét... tác giả như muốn nói rằng : mọi
người đều góp phần vào việc đóng
đinh Chúa Giê-su trên cây thập giá.
Khi quan sát đám đông, người ta thấy một gương
mặt dường như bị mất hút trong bóng tối,
nhưng chỉ cần một vài nét cũng đủ để
các nhà chuyên môn nhận ra đó là khuôn mặt của danh hoạ
Rembrandt là tác giả bức tranh.
Tại sao giữa đám đông đằng đằng
sát khí muốn thảm sát Chúa Giê-su, mà Rembrandt lại chèn thêm
khuôn mặt của mình vào ? Câu trả lời duy nhất có
lẽ là do ông đã ý thức về tội lỗi của
mình. Rembrandt như muốn thú nhận chính ông khi phạm tội
cũng đã gián tiếp hành hình và treo Chúa Giê-su trên cây thập
giá.
3) TÌNH YÊU CỦA CHÚA TRỔI VƯỢT HƠN
TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI PHÀM :
Môn đệ của một vị đạo sĩ kia
muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta xem ra còn quyến
luyến với tình cảm gia đình nên nói với đạo
sĩ : "Vợ con của con rất thương yêu con,
nên chắc sẽ không bằng lòng cho con thoát tục theo thầy
đâu".
Nghe vậy, vị đạo sĩ muốn chứng minh
cho anh chàng biết sự thật nên đã dạy cho anh một
kỹ năng chết giả. Sau khi thực tập thuần
thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy về nhà áp dụng
kỹ thuật chết giả này. Quả thật, anh ta
đã áp dụng tuyệt vời bài học chết giả
bằng việc nhắm mắt xuôi tay và ngừng thở,
nhưng vẫn có thể nghe được tiếng khóc
than của vợ con và người thân trong gia đình.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để
phân ưu cùng tang quyến. Sau giây phút tưởng niệm
người quá cố, ông bảo với vợ con đang
khóc thương người mới qua đời như
sau : "Tôi có bí quyết để cứu sống người
này, nếu có ai sẵn lòng chết thay thì anh ta sẽ sống
lại".
Bấy giờ anh chàng giả chết rất ngạc nhiên
khi nghe từng người trong gia đình anh nêu ra các lý do
để từ chối chết thay anh. Sau cùng anh lại càng
ngạc nhiên hơn nữa khi nghe chính người vợ
nghĩa thiết của anh đã tóm lại quyết định
của mọi người trong gia đình như sau :
"Tôi nghĩ là không ai đồng ý chết thay cho chồng
tôi đâu. Thực ra dù không có anh ta, thì chúng tôi vẫn có thể
sống được ! ".
4. LOÀI NGƯỜI LUẬN TỘI THIÊN CHÚA
:
Tôi có một giấc mơ.
Tôi mơ thấy ngày tận thế. Hàng tỉ tỉ người
tập trung tại một cánh đồng rộng lớn
trước toà Thiên Chúa để chờ Ngài xét xử. Nhiều
người sợ hãi. Nhưng nhiều người khác lại
nổi giận.
Một phụ nữ nói :
“Sao Chúa có thể xét xử chúng tôi được ? Ngài
có biết gì về đau khổ đâu ! Chúng tôi đã
phải chịu khủng bố, đánh đập, tra tấn
và giết chết.” Vừa nói bà vừa vạch tay áo cho thấy
một con số do một trại tập trung Đức
quốc xã xâm vào cánh tay bà.
Tiếp theo, một người
đàn ông da đen cúi đầu xuống, để lộ
một sợi dây thừng đang quấn quanh cổ ông :
“Tôi đã bị buộc cổ như thế này chỉ vì tội
làm người da đen, bị rứt khỏi những người
thân yêu, rồi bị dẫn xuống chiếc tàu chật cứng
như nêm, bị bán làm nô lệ, làm việc nặng nhọc
cho đến chết”.
Sau đó, một cô gái với
dòng chữ “con hoang” khắc trên trán lên tiếng : “Tôi phải
chịu đựng sự sỉ nhục này vượt sức…
vượt sức…”. Cô nghẹn ngào không nói tiếp được.
Nhiều tiếng nói khác tiếp
theo… Mọi người đều trách Chúa vì những khổ
đau họ đã gánh chịu khi còn sống. Ngài sung sướng
quá vì cứ sống ở trên trời chỉ toàn ngọt ngào
và sáng láng, chẳng hề có một chút mồ hôi, nước
mắt, đói khát, sợ hãi, hận thù. Bởi vậy Ngài
có biết gì về những nỗi khổ của loài người
đâu !
Thế rồi họ nhất
trí bắt Ngài phải xuống sống ở trần gian.
Tuy nhiên phải làm sao cho Ngài sống y như một người
thường để không ai biết Ngài là Thiên Chúa, và cũng
không cho Ngài được sử dụng quyền phép Thiên
Chúa của Ngài. Rất nhiều góp ý được đưa
ra :
– Hãy cho Ngài trở thành một
tên Do thái.
– Làm sao để người
ta nghĩ Ngài là một đứa con hoang, để không ai
biết Cha thật của Ngài là ai.
– Ngài phải làm việc bận
rộn đến nỗi bà con Ngài tưởng Ngài bị mất
trí.
– Ngài phải nếm nỗi
đau bị những người bạn thân nhất phản
bội.
– Ngài phải bị đưa
ra toà án để phải chịu quan tòa luận tội cách
bất công.
– Ngài phải bị kết án
là một tay lừa đảo và bị xử tử ô nhục
trên cây thập tự.
– Trước khi chết, Ngài
còn phải nếm mùi bị tra tấn và lăng nhục.
– Cuối cùng phải cho Ngài
nếm mùi chết cô đơn và bị người thân bỏ
rơi khủng khiếp đến mức nào.
Lời góp ý cuối cùng
đưa ra xong, mọi người im lặng… Và bỗng
nhiên họ nhận ra rằng chính Chúa đã thi hành bản án
ấy từ lâu ! (Flor McCarthy)
3. SUY NIỆM :
1) ĐẠO CÔNG GIÁO LÀ CON ĐƯỜNG
VINH QUANG QUA THẬP GIÁ :
Người tín hữu là người chấp nhận
đi trên Con Đường của Chúa Giê-su : Là đòi phải
bỏ đi ý riêng của mình để vâng theo ý Thiên Chúa muốn
như lời cầu của Chúa Giê-su với Chúa Cha : “Lạy
Cha, nếu được, xin cho con khỏi uống chén
này. Nhưng đừng theo ý con mà xin vâng ý Cha”, và như Người
đã dạy các môn đệ : “Ai muốn theo tôi phải từ
bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi”. Mỗi người tín hữu chúng
ta cần ý thức rằng : Ai đi Con Đường Giê-su
sẽ không được dừng lại lúc Chúa khải hoàn
vào thành Giêrusalem với cành lá, quần áo trải thảm trên
đường, và đám đông hoan hô… nhưng phải
trung thành theo Chúa trên đường thập giá, kết thúc
trên Núi Sọ, chịu chết ô nhục giữa hai tên trộm
cướp như một kẻ đại gian đại ác.
- Trên đường lên Giê-ru-sa-lem mọi người
đều đi theo Chúa và đều là môn đệ của
Chúa. Nhưng trên đường lên Núi Sọ thì chỉ còn
ít người đi theo Chúa. Có những người đã
phản nộp Thầy như Giu-đa, có người chối
bỏ Thầy như Phê-rô. Còn những môn đệ còn lại thì đều hèn nhát bỏ
Thầy mà chạy trốn…
2) TÔN VINH CHÚA GIÊ-SU LÀ VUA THIÊN SAI :
- Bài Tin Mừng khi rước
lá thuật lại việc Đức Giê-su khải
hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem như một vị Vua
Thiên Sai, được dân chúng theo sau hoan hô như
đón mừng một ông vua khải hoàn vào
thành, hầu ứng nghiệm lời sấm của
ngôn sứ Gia-ca-ri-a. Vào thời Đức
Giê-su, nhiều người Do thái đang chờ
mong Đấng Thiên Sai đến để lãnh đạo
dân đánh đuổi quân Rô-ma ra khỏi bờ cõi Do
thái và thiết lập một Triều Đại
Mới, giống như triều đại của vua
Đa-vít và vua Sa-lô-mon xưa. Nhưng thực
ra sứ mệnh cứu thế của Đức
Giê-su không phải như dân Do thái đang trông đợi.
Người là Đấng Thiên Sai nhưng là
ông Vua “Mục Tử tốt lành, hiền hậu và khiêm
nhường”. Người đã xưng mình là Vua trước
mặt quan Tổng Trấn Phi-la-tô, khi hai tay đang bị
trói, thân thể bị đòn đánh tan nát; khi phải đứng
trước tòa án như một tội nhân. Danh hiệu Vua
của Chúa Giê-su được ghi bằng dòng chữ viết
tắt “INRI” gắn trên cây thập giá, nghĩa là : “Giê-su
Na-da-rét Vua dân Do thái”.
- Đức Giê-su chính là Vua nhưng không phải
như một ông Vua trần tục, đòi được
người khác hầu hạ, nhưng là ông Vua Mục Tử
Tốt Lành, hiền hậu và khiêm nhường :
+ Là Vua Mục Tử : Người biết rõ đàn
chiên, yêu thương mọi con chiên và chăm sóc từng
con, nhất là sẵn sàng đi tìm những con đi hoang,
băng bó những con bị thương tích, âu yếm và
vác chúng trên vai mà đưa về đàn. Ngày nay Người
yêu thương đàn chiên Hội Thánh và yêu đến tột
cùng, khi thiết lập bí tích Thánh Thể để ở với
Hội Thánh mọi ngày và trở nên lương thực thần
linh nuôi dưỡng Hội Thánh. Người cũng nêu
gương khiêm nhường cho chúng ta, và mời gọi chúng
ta hãy học nơi Người sự hiền lành và khiêm nhường
trong lòng.
+ Là Vua Hòa Bình : Người không ngồi trên ngựa
chiến uy quyền khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, nhưng
khiêm tốn ngồi trên con lừa. Người đến
không để kết án và trừng phạt tội
nhân, nhưng để yêu thương, tha thứ cho những
tội nhân thực lòng sám hối ăn năn như
tha tội người trộm lành trên cây thập tự. Người
là Vua Mục Tử bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng
chịu chết để cho chiên được sống và
sống dồi dào.
Còn chúng ta hôm nay sẽ làm gì để
đáp lại tình thương vô biên của Vua Giê-su ?
3) ĐÁP LẠI TÌNH THƯƠNG CỨU
ĐỘ CỦA VUA GIÊ-SU :
Một số việc các tín hữu chúng ta cầm thực
hiện để trở thành môn đệ của
Chúa Giê-su và xứng đáng được Chúa
Cha đón nhận vào Nước Trời đời
sau :
+ Siêng năng cầu nguyện : Lý do Tông đồ
Phê-rô sa ngã và hèn nhát chối Thầy ba lần
là vì quá tự tin vào sức riêng hơn
tin cậy vào ơn Chúa, đã ăn uống no say và
không theo lời Thầy dạy :” Hãy tỉnh thức và cầu
nguyện kẻo sa chước cám dỗ”.
+ Luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha : Khi
gặp rủi ro, bệnh tật và những
điều trái ý cực lòng, chúng ta hãy xin
vâng theo ý Chúa Cha. Tránh đi coi bói toán, tin vào bùa
phép và các thứ mê tín khác… Hãy
xin Chúa thêm sức mạnh giúp chúng ta chấp
nhận những đau khổ không thể tránh khỏi,
coi đau khổ gặp phải như phương thế
để đền tội mình và góp phần cứu
rỗi anh em.
+ Tránh cố tình phạm tội như Giu-đa, vì
sẽ bị phạt chung số phận với ma quỷ
như lời Chúa phán : “Khốn cho kẻ nộp Con Người.
Thà nó đừng sinh ra thì hơn”.
+ Sẵn sàng tha thứ cho những kẻ có lỗi với
mình như lời kinh Lạy Cha, noi gương Chúa Giê-su
đã tha thứ cho Phê-rô sau khi ông chối Thầy ba lần;
Hãy năng cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm
hại mình noi gương Chúa Giê-su đã xin Cha tha cho những
kẻ làm khốn mình.
+ Luôn giữ bình tĩnh và dùng tình thương để
hoán cải kẻ thù, noi gương Chúa Giê-su đã ứng
xử với Giu-đa khi anh ta hôn mặt để nộp
Người cho kẻ thù.
+ Kiên nhẫn chịu đựng khi bị khích bác,
noi gương Chúa Giê-su đã im lặng chịu đựng
trước những lời hò hét đả đảo của
đám đông cuồng nộ.
+ Thực lòng sám hối và tin yêu Chúa noi gương
kẻ trộm lành trên cây thập tự khi trách bạn : “Mi
chịu cùng một án, mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao ? Phần
chúng ta, bị như thế này là đích đáng, vì xứng
với tội ta đã làm. Còn ông Giê-su này đâu có làm điều
gì xấu ?” và cầu xin Chúa Giê-su : “Lạy ông Giê-su. Khi nào về
Nước Ngài, xin nhớ đến tôi cùng”. Chúa Giê-su
đã lập tức tha tội và ban ơn cứu độ
cho anh khi phán: “Ta bảo thật. Ngay hôm nay anh sẽ được
ở trên Thiên Đàng với Ta”.
+ Quyết tâm loại
trừ tính ganh ghét : Sau cùng, mỗi người chúng ta
hãy quyết tâm loại trừ tính ganh ghét những ai hơn
mình, để tránh phạm thêm tội ác khác như các đầu
mục Do Thái xưa đã ganh ghét và giết hại Chúa
Giê-su.
4. THẢO LUẬN :
Trước đau khổ thập giá gặp phải do
bản thân, người khác và do hoàn cảnh tự nhiên gây
ra, chúng ta phải ứng xử thế nào để thể
hiện đức tin vào tình thương quan phòng của
Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su ?
5. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong những ngày Tuần
Thánh này :
Vì Chúa đã lấy thịt mình mà
nuôi dưỡng chúng con, xin giúp chúng con
năng nhớ đến những người
nghèo khó gần bên để nhường cơm
xẻ áo cho họ.
Vì Chúa đã xao xuyến buồn sầu
trong vườn Cây Dầu, xin giúp chúng con
sẵn lòng chấp nhận chén đắng
đau khổ gặp phải trong cuộc sống.
Vì Chúa đã bị kết án bất
công, xin giúp chúng con dám lên tiếng bênh vực
công lý. Vì Chúa đã bị xỉ nhục
nhạo cười, xin giúp chúng con nhẫn nhịn
chịu đựng tha nhân.
Vì Chúa đã vác cây thập giá
nặng nề, xin giúp những ai đang đau
khổ trên giường bệnh, biết sẵn sàng
vác Thánh giá đời mình mà theo chân Chúa.
Vì Chúa đã bị lột áo và chịu
đóng đinh tay chân vào thập giá, xin giúp
chúng con biết đóng đinh tính xác thịt
mình vào thập giá Chúa.
Vì Chúa đã giang tay chịu chết trên thập
giá, xin giúp chúng con biết cầu nguyện
điều tốt cho tha nhân.
Vì Chúa đã phục sinh vinh quang, xin cho chúng
con biết đón nhận mọi sự trái ý xảy
đến với niềm cậy trông phó thác
vào tình thương quan phòng của Chúa…
Nhờ đó, sau này chúng con hy vọng
sẽ được tham phần vào hạnh phúc với
Chúa trong Nước Trời muôn đời.- AMEN.
LM ĐAN VINH - HHTM
|