HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG
NIÊN C
Is 66,10-14c ; Gl 6,14-18 ; Lc
10,1-12.17-20
NÊN CHỨNG NHÂN CỦA CHÚA TRONG CUỘC SỐNG HÔM NAY
·
HỌC
LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Lc 10,1-12.17-20
(1) Sau đó, Chúa chỉ định
bảy mươi hai người khác, và sai các
ông cứ từng hai người một đi
trước, vào tất cả các thành, các
nơi mà chính Người sẽ đến.
(2) Người bảo các ông : “Lúa chín
đầy đồng mà thợ gặt lại
ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai
thợ ra gặt lúa về”. (3) Anh em hãy ra
đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào
giữa bầy sói. (4) Đừng mang theo túi
tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng
chào hỏi ai dọc đường. (5) Vào bất
cứ nhà nào, thì trước tiên hãy
nói : “Bình an cho nhà này !” (6) Nếu ở
đó có ai đáng hưởng bình an,
thì bình an của anh em sẽ đến đậu
trên người ấy. Bằng không, thì bình
an đó sẽ quay về với anh em. (7) Hãy ở
lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống
thức gì, thì anh em dùng thức đó,
vì làm thợ thì đáng được
trả công. Đừng đi hết nhà nọ
đến nhà kia. (8) Vào bất cứ thành
nào mà được người ta tiếp
đón, thì cứ ăn những gì người
ta dọn cho anh em. (9) Hãy chữa những người
đau yếu trong thành và nói với họ
: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần
các ông”. (10) Nhưng vào bất cứ thành
nào mà người ta không tiếp đón,
thì anh em ra các quảng trường mà nói
: “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng
tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các
ông. Tuy nhiên, các ông phải biết điều này :
“Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”.
(12) Thầy nói cho anh em hay : Trong ngày ấy, thành
Xơ-đom còn được xử khoan hồng
hơn thành đó”. (17) Nhóm Bảy Mươi
Hai trở về hớn hở nói : “Thưa
Thầy, nghe đến Danh Thầy, cả ma quỷ cũng
phải khuất phục chúng con”. (18) Đức
Giê-su bảo các ông : “Thầy đã thấy Xa-tan như
một tia chớp từ trời sa xuống.
(19) Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng
để đạp lên rắn rết, bò cạp
và mọi thế lực kẻ thù, mà
chẳng có gì làm hại được
anh em. (20) Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ
thần phải khuất phục anh em. Nhưng hãy mừng
vì tên anh em đã được ghi trên trời”.
2. Ý CHÍNH :
Đức Giê-su chỉ định bảy
mươi hai người làm môn đệ và
sai họ từng hai người đi thực
tập truyền giáo. Các ông làm theo lời
Thầy dạy và đã đạt được
kết quả mỹ mãn.Cụ
thể là ma quỷ đã
phải chịu khuất
phục trước các ông.
3. CHÚ THÍCH :
- C 1-2 : + Chúa chỉ định
bảy mươi hai người : con số 70 (theo bản
văn tiếng Hipri) hay số 72 (theo bản văn tiếng
Hy-Lạp) tượng trưng các tín hữu.
Số 72 môn đệ này được Đức Giê-su chọn
để cộng tác với Người giống như Mô-sê
xưa đã nghe lời góp ý của nhạc phụ chọn
ra 72 vị kỳ lão giúp phục vụ dân Chúa trong thời
Xuất Hành (x Xh 18,13t). + Sai các
ông cứ từng hai người một đi
trước : Đi hai người để dễ
trợ giúp nhau (x. Gv 4,-12). Thời Giáo hội
sơ khai, các Tông đồ đã đi truyền
giáo từng hai người: Bác-na-ba đi với
Sao-lô (x. Cv 13,2); Giu-đa đi với Xi-la (x. Cv 15,27);
Bác-na-ba đi với Mác-cô; Phao-lô với Bác-na-ba (x.
Cv 15,35); Ti-mô-thê với Ê-rát-tô (x. Cv 19,22). + Phân biệt
hai chức vụ Tông đồ và Môn đệ :
Môn đệ là những người nhận Đức
Giê-su làm Thầy và đi theo để nghe Người
giảng và sống theo Lời dạy của Người.
Có bảy mươi hoặc bảy mươi hai
môn đệ. Các ông cũng được Đức
Giê-su sai đi trước đến những nơi
mà chính Người sẽ tới (x. Lc 10,1).
Khi Đức Giê-su rao giảng ở đâu, các
môn đệ tụ tập đến nghe, rồi sau đó
lại trở về với gia đình vợ
con và hành nghề của mình sinh sống. Còn Tông
đồ là 12 người được Đức
Giê-su chọn trong số 72 môn đệ (x. Lc 6,13), được
sai đi rao giảng Tin mừng (x. Lc 9,2). Các ông
đã được Đức Giê-su yêu cầu bỏ nghề
dánh cá biển để đi theo Người làm nghề mới
là đánh bắt các linh hồn (x. Mc 1,16-18). Các ông
đã được chứng kiến các phép
lạ Người làm (x. Lc 7,11); Được
tham dự bữa Tiệc ly Vượt qua (x. Mt
26,26-29); Cùng trải qua biến cố Tử Nạn
và Phục Sinh với Người (x. Lc 24,36-43);
Được Người trao quyền cầm buộc
và tháo cởi (x. Mt 16,19), quyền chăn chiên
(x. Ga 21,15-17); Sẽ được đồng bàn
trong Vương quốc với Người, và
được ngồi trên 12 tòa mà xét xử
12 chi tộc Ít-ra-en (x. Lc 22,30); Cuối cùng các
ông còn được Người sai đi để
làm chứng cho Người đến tận cùng
thế giới (x. Mt 28,19; Cv 1,8). + Lúa chín
đầy đồng : Các Ngôn sứ trong Cựu
ước đã từng miêu tả ngày phán
xét như một ngày gặt hái (x. Is 41,15;
Gr 51,33). Ông Gio-an Tẩy giả đã kể ra việc
phán xét của Đấng Thiên Sai trong ngày tận
thế tương tự như các động tác
của người nông dân sau mùa gặt lúa
(x. Lc 3,17). Ở đây, Đức Giê-su cho môn đệ
tham dự vào công trình của thời Cánh
chung của Người bằng sự cầu
nguyện và loan báo Tin mừng.
- C 3-6 : + Như chiên giữa
bầy sói : Các môn đệ của Đức
Giê-su sẽ đi vào trần gian đầy những
kẻ thù đang tìm cách bách hại các ông.
Người chỉ thị cho các ông phải ra đi với
hai bàn tay không mang khí giới, lòng đầy nhân ái
và cư xử hiền lành như con chiên. Các
ông phải đặt trọn niềm cậy trông vào
Chúa quan phòng. + Cũng đừng chào hỏi
ai dọc đường : Vì người Do
thái và các dân vùng Trung Đông gặp
nhau thường chào hỏi hàn huyên lâu giờ.
Đức Giê-su muốn các môn đệ đừng
để các việc trần thế làm mất nhiều
thời gian. Trong các sách của Lu-ca, các sứ
giả của Tin mừng đều đi như chạy:
Đức Ma-ri-a chạy đi thăm bà Ê-li-sa-bét,
các mục đồng chạy đến máng cỏ,
hai Tông đồ Phê-rô và Gio-an chạy ra thăm mồ Chúa,
Phi-líp-phê chạy để đuổi kịp chiếc
xe của một người Ê-thi-ô-pi (x. Cv 8,3). + “Bình
an cho nhà này” : Lu-ca lấy lại cách chào
hỏi thông thường của Cựu ước
(x. 1 Sm 25,6). Đây là một lời cầu chúc
phúc lộc an khang, một lời chúc lành. Bình
an là mức sung mãn của sự sống,
là món quà cao quý nhất mà Đấng
Mê-si-a ban tặng (x. Lc 1,79). + Có ai đáng hưởng
bình an : Đây là người tin và sẵn
sàng đón nhận ơn bình an của Thiên Chúa.
- C 7-9 : + Người ta cho
ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức
đó Đây là một
sự cởi mở của Đức
Giê-su. Người cho phép các môn đệ được
ăn mọi thức ăn do người ta dọn
cho. + Làm thợ thì đáng được
trả công : Ăn những thức người
ta dọn cho không phải là ăn của bố thí,
nhưng là một thứ lương bổng do sự
công bằng đòi buộc, tương xứng
với Tin mừng cao quý mà các ông
đem đến. Trách nhiệm của Cộng đoàn
Hội thánh là phải lo phương tiện sống
và hoạt động cho các người rao giảng
Tin mừng. Sau này thánh Phao-lô cũng nói
rằng : “Quả vậy Kinh thánh có nói:
Đừng bịt mõm con bò đang đạp
lúa, và làm thợ thì đáng được
trả công (1 Tm 5,18; Mt 10,10; Đnl 25,4). Nơi khác Ngài
còn nói : “Một khi chúng tôi đã gieo của
thiêng liêng cho anh em, thì nếu chúng tôi có gặt
của vật chất nơi anh em, thì đâu có phải
là chuyện quá đáng” (1 Cr 9,11). Tuy nhiên thánh
Phao-lô lại từ chối quyền gặt hái
của cải vật chất ấy cho bản thân ngài
(x. 1 Cr 9,12-14 ; 2 Cr 11,7-9). + Đừng đi hết
nhà nọ đến nhà kia : Người
Tông đồ phải tránh lo lắng tìm sự
tiện nghi ăn ở cho mình, nhưng cần
chuyên tâm chu tòan sứ vụ. + “Triều Đại
Thiên Chúa đã đến gần các ông” : Các
môn đệ đi trước dọn đường
cho Đức Giê-su sắp đến. Người
chính là hiện thân của Triều Đại Thiên
Chúa.
- C 10-12 : + Vào bất cứ
thành nào mà người ta không đón
tiếp... : Đức Giê-su cảnh báo cho các
môn đệ biết họ sẽ bị người
ta từ chối Tin mừng. Bấy giờ các
ông vẫn phải cho họ biết rằng: Dù họ
có muốn hay không, một ngày kia, Thiên Chúa sẽ
hiển trị. Đó là ngày Phán xét. Nếu
họ cố tình chối từ, họ sẽ bị
loại ra khỏi Nước Thiên Chúa. + Thành
Xơ-đom : Là một địa danh thời
Tổ phụ Ap-ra-ham. Thành này đã bị phạt
vì đã phạm nhiều tội lỗi (St 10,19).
- C 17-20 : + Nghe đến Danh
Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục
chúng con : Ma quỷ phải chịu xuất ra khỏi
người bị chúng ám khi các môn đệ
ra lệnh nhân Danh Đức Giê-su (x. Cv 16,18). + Xa-tan từ
trời sa xuống : Xa-tan là cái tên ám chỉ
ma quỷ, kẻ đối lập và thù ghét
Thiên Chúa. Do đó, khi Nước Thiên Chúa
xuất hiện, thì quyền lực của Xa-tan sẽ
bị lật đổ. + Quyền năng để chà
đạp lên rắn rết... : Các loài vật
kể ra ở đây là khí giới của
Xa-tan. Đức Giê-su chiến thắng Xa-tan thì
cũng tước đoạt hết khí giới
của chúng và bắt chúng phải phục
quyền (Rm 8,37-39 ; Ga 12,31). + Mừng vì tên được
ghi trên trời : Ở đây là cuốn sách
trường sinh, trong đó có ghi tên những
người được ơn cứu độ
(x. Đnl 12,1; Kh 3,5).
4. CÂU HỎI : 1) Đức
Giê-su sai bao nhiêu môn đệ đi truyền giáo ? 2) Tại
sao môn đệ phải đi từng hai người
một ? 3) Có bao nhiêu Tông đồ ? 4) Tông đồ
khác với môn đệ thế nào ? 5) Tại
sao Đức Giê-su lại truyền cho môn đệ
đừng chào hỏi ai dọc đường
và chúc bình an cho nơi mà các ông đến
ở trọ ? 6) Hãy cho biết lý do các môn
đệ được ăn mọi thứ người
ta dọn cho ? 7) Thành Xơ-đom là thành nào
? 8) Khi nào thì quyền lực của Xa-tan hòan
tòan bị sụp đổ ?
·
SỐNG
LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Lúa
chín đầy đồng mà thợ gặt
lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt
sai thợ gặt lúa về” (Lc 10,2).
2. CÂU CHUYỆN :
1) CHỨNG NHÂN CỦA CHÚA GIỮA ĐỜI THƯỜNG :
Tại Thủ đô Ma-ni-la nước
Phi-líp-pin, có trường Đại học
Công giáo A-ta-di-ô do các cha dòng Tên sáng lập,
tọa lạc trên một ngọn đồi. Đây là
một trường cung cấp rất nhiều nhân tài
cho đất nước Phi. Dưới chân trường
Đại học này là một khu lao động
nghèo, trong đó có một cộng đoàn
tu sĩ Tiểu đệ. Đa số các tu sĩ ở
đây đã từng ở Việt nam.
Một hôm, một vị linh mục dòng
Tên người Mỹ, là Giáo sư Đại
học A-ta-di-ô tình cờ đi lạc vào khu
lao động ấy và giữa đườngông
ta gặp được một tu sĩ Tiểu
đệ người Bỉ. Sau khi làm quen, vị
linh mục người Mỹ đã hỏi tu sĩ
người Bỉ : “Thầy làm gì ở
khu lao động này ?” Tu sĩ người Bỉ
kia trả lời : “Hằng ngày tôi đi chợ,
nấu ăn, giặt quần áo, đi làm thuê
làm mướn cho những ai cần”. Nghe thế,
vị linh mục người Mỹ rất lấy làm
tiếc về sự hy sinh lãng phí của tu sĩ
trí thức người Bỉ kia. Ông cũng
cho biết công việc của ông ở đây là :
Dạy học cho các sinh viên, đi thuyết trình
nhằm rao giảng Tin mừng và đào tạo
những nhà trí thức phục vụ Giáo
hội Phi-lip-pin.
Thực ra mọi thành phần linh mục
tu sĩ hay giáo dân trong Giáo Hội đều được
Chúa trao phó sứ mạng đi loan báo Tin Mừng khắp muôn
dân. Nhưng mỗi thành phần linh mục tu sĩ hay giáo
dân sẽ thi hành sứ mạng tuỳ theo ơn gọi của
mình. Riêng các tu sĩ cũng được đào tạo
để thi hành sứ mệnh theo linh đạo của hội
dòng mình. Tu sĩ dòng Tên được đào tạo để
dạy học, loan báo Tin Mừng cho các sinh viên đại học.
Còn các tu sĩ dòng Tiểu Đệ lại được
đào tạo để ưu tiên phục vụ người
bình dân. Tất cả các hội dòng đều nhằm giới
thiệu Chúa và làm chứng nhân của Chúa cho những người
chưa biết Chúa.
2) HÃY CHIẾN THẮNG SỰ DỮ BẰNG
LÒNG TIN YÊU :
Vào một buổi tối nọ, một diễn giả
nổi tiếng là GION KEO-LƠ (John Keller) được mời
thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người
tại một vận động trường ở
Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại
và nói : “Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp yêu cầu
tắt tất cả đèn trong sân vận động này”.
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối.
Ông John Keller lại nói tiếp : “Bây giờ tôi sẽ đốt
lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của
que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn tiếng : “Thấy rồi
!” Một que diêm vừa được bật lên, thì cả
vận động trường đều vang lên “Thấy
rồi !”
Sau đó đèn trong vận động trường
được bật sáng trở lại và ông John Keller giải
thích : “Ánh sáng của một hành động nhân ái dù nhỏ
như một que diêm cũng có thể chiếu sáng trong bóng
đêm tăm tối của nhân loại y như thế”.
Rồi một lần nữa, tất cả đèn trong
sân vận động lại vụt tắt và một giọng
nói vang lên ra lệnh : “Tất cả những ai có mang theo hộp
quẹt, xin hãy đốt cháy lên !” Bỗng chốc, cả
vận động trường đều rực cháy ánh
sáng.
Rồi ông John Keller kết luận : “Nếu tất cả
mọi người chúng ta đều hợp lực cùng
nhau, chúng ta sẽ có thể chiến thắng bóng tối,
chiến thắng sự dữ và sự oán thù bằng những
đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt
của chúng ta”.
3) CÂY LÀM MƯA:
Ở Pê-ru có một loại cây rất ngộ nghĩnh,
người ta bản xứ gọi nó là “cây làm mưa”. Lá
nó hút hơi nước trong không khí, rồi nhỏ xuống
như những giọt sương mai. Vì thế, chung quanh
nó mặt đất lúc nào cũng ẩm ướt. Và trời
càng nóng, thì nó càng nhỏ xuống nhiều nước.
Mỗi người chúng ta cũng phải trở nên như
một cây làm mưa hữu ích cho tha nhân chung quanh đang khô
khan nguội lạnh. Bằng đời sống đạo
đức, chúng ta sẽ hút lấy ân sủng của Chúa, rồi
bằng những hành động bác ái, chúng ta gieo ân sủng
ấy cho tha nhân chung quanh đang cần được trợ
giúp.
4) LỐI SỐNG HƯỞNG THỤ KHÔNG
HỢP VỚI SỨ MỆNH LOAN TIN MỪNG:
Một linh mục nọ từ nơi khác đến xin
gia nhập vào một giáo phận truyền giáo để
được phục vụ tại các giáo điểm
truyền giáo cho đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa. Trong
cuộc trao đổi, linh mục này đã quen sống
trong môi trường thành thị nên đã hỏi bề trên
giáo phận như sau :
- Giáo điểm có xe hơi để di chuyển không ?
- Nhà ở trong giáo điểm có gắn máy lạnh không
?
- Có người giúp việc lo phục vụ nấu
ăn và quét dọn vệ sinh hằng ngày không ?
- Tiền lương mỗi tháng được bao nhiêu
?
- Mỗi năm có được hưởng chế
độ nghỉ hè một tháng không ? v.v…
Cuối cùng linh mục này đã bị bề
trên từ chối gia nhập giáo phận vì có lối sống
không thích hợp với sứ mệnh loan báo Tin Mừng.
3. THẢO LUẬN: 1) Thế giới
đã nhận biết và ca ngợi điều
gì trong cuộc sống và hoạt động của
Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta ? 2) Ngày nay, muốn làm
tông đồ truyền giáo hữu hiệu cho
đồng bào Việt nam, chúng ta cần làm
gì ?
4. SUY NIỆM :
Công đồng Va-ti-ca-nô II đã khẳng
định : "Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành
phải truyền giáo". Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II
cũng qủa quyết : "Không một ai trong những người
tin vào Đức Ki-tô, và không một tổ chức nào của
Hội thánh được miễn trừ trách vụ cao cả
này : Đó là đi loan báo Đức Ki-tô cho mọi dân tộc".
Thánh Phao-lô đã thốt lên : "Khốn
cho thân tôi : nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (1 Cr
9,16). Nhưng chính việc làm mới chứng thực cho lời
rao giảng, còn lời rao giảng chỉ làm sáng tỏ việc
làm của ta. Ra đi là để làm chứng, và lời chứng
sáng giá nhất chính là việc làm như Moody đã nói :
"Các ngọn hải đăng ở bờ biển không
thổi còi ầm ĩ, chúng chỉ chiếu sáng mà thôi".
1) Có nhiều cách thức truyền
giáo : Qua cuộc đối thoại giữa vị linh
mục dòng Tên người Mỹ và vị tu sĩ
dòng Tiểu đệ người Bỉ trong câu
chuyện trên, chúng ta thấy có nhiều cách
truyền giáo trong Hội thánh : Vị linh mục
dòng Tên đại diện cho đông đảo các
nhà truyền giáo trên khắp thế giới,
ngày đêm rao giảng Tin mừng bằng khả
năng tri thức và các phương tiện
sẵn có. Nhưng bên cạnh đó, còn có
các tu sĩ âm thầm sống giữa những
người nghèo, chia sẻ sự lao động
chân tay cực nhọc với những người
nghèo khác... mà tu sĩ dòng Tiểu đệ người
Bỉ trong câu chuyện trên là một bằng chứng.
Đây là những chứng nhân truyền giáo
trong âm thầm, lấy cuộc sống phục vụ để
làm chứng cho Chúa. Cả hai đường
lối truyền giáo ấy đều có giá
trị và thực sự đã đem lại
nhiều kết quả tốt đẹp cho Hội thánh.
2) Điều kiện của các
thừa sai : Khi sai các môn đệ đi truyền giáo,
Đức Giê-su đã căn dặn các ông phải
sống hiền lành và đơn giản như sau
: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày
dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc
đường”. Như vậy, một cuộc sống
siêu thoát, không lệ thuộc vào của cải
đời này, không phí thời giờ
vào những chuyện không đâu, trông cậy vào
Chúa quan phòng, khiêm tốn đón nhận sự
giúp đỡ về nhà ở, cơm
ăn... Tôn trọng tự do của tha nhân, chấp nhận
có thể bị những kẻ có ác cảm với
đạo từ chối xua đuổi... đó
chính là những điều mà những
ai muốn làm chứng cho Nước Trời
cần thực hiện.
3) Sống đạo và truyền đạo
: Hiện nay dân số Á châu chiếm gần hai phần
ba thế giới. Nhưng số người nhận
biết Chúa chưa được 3 phần
trăm. Á châu chính là cánh đồng lúa
chín đang cần thợ gặt. Là thành
phần của Hội thánh, mỗi tín hữu
chúng ta cũng phải thi hành sứ vụ tông
đồ. Chúng ta phải sống thế nào để
những người khác phải bỡ ngỡ
giống như người Do thái tại Giê-ru-sa-lem
khi quan sát sinh hoạt của Cộng đoàn Hội thánh
sơ khai đã phải thốt lên: “Xem kìa, họ
thương nhau dường nào !”. Ki-tô giáo
không phải là một lý thuyết nhưng là sức
sống của Đức Giê-su. Sống đạo là
sống sức sống của Chúa và truyền
đạo là truyền sức sống ấy cho tha
nhân.
4) Gây thiện cảm để
giới thiệu Chúa cho lương dân : Gần đây hội
nghị các Giám mục Á châu đã liệt
kê một số điều mà các tín hữu
cần học hỏi nơi các dân tộc châu Á như
sau : Học tập cách cầu nguyện ăn chay và
bố thí của người Hồi giáo. Học
tập cách chiêm niệm nơi người Ấn
giáo. Học tập sự từ bỏ của
cải và tôn trọng sự sống nơi người
Phật tử. Học cách xây dựng gia đình
và xã hội có trật tự nơi Khổng
giáo. Học sống đơn sơ khiêm tốn nơi
Lão giáo... Càng học, ta càng nhận ra giáo
lý Đức Giê-su tiềm ẩn trong các tôn giáo
đó, và nhờ hiểu biết họ ta sẽ
gây được thiện cảm với họ, để
giới thiệu Đức Giê-su cho họ hữu
hiệu hơn.
5. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Thế giới
thật bao la và vòng tay của chúng con lại
quá bé nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm
chặt tay nhau. Xin cho chúng con biết hợp tác
với những người thiện chí dù
họ không cùng niềm tin với chúng con, để
mọi người cùng nhau loại trừ các
tệ nạn xã hội, xây dựng một “Trời
Mới Đất Mới” công bình và nhân ái theo
thánh ý Chúa.- AMEN.
LM ĐAN VINH- HHTM
|