Nhân danh Cha
và Con và Thánh Thần
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)
Với người công giáo, còn gì gần
gũi thân quen cho bằng làm dấu thánh
giá trên mình cùng với lời đọc "Nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần". Ấy thế mà mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi dường như lại thật
xa lạ và trừu tượng. Có chăng những từ
ngữ "ngôi vị" và "bản tính", vốn rất
cần thiết để minh định tín điều, lại
là bước cản cho sự gặp gỡ Đấng
Thiên Chúa sống động? Có chăng những
suy tư thần học về Ba Ngôi thật phong phú về
tư duy nhưng lại thiếu tiếp cận mục vụ
và linh đạo? Từ góc độ thực hành của
đời sống đức tin, xin gợi ý về lời
đọc "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" như một
cảm nghiệm gặp gỡ Đấng Thiên Chúa duy nhất
và là Đấng ở trên, ở với và ở trong con
người cũng như lịch sử.
Đấng Thiên Chúa ở trên, ở với
và ở trong
Cảm nghiệm đầu tiên của
con người về Thiên Chúa: Ngài là Đấng "ở
trên", "Ông Trời", "Ông Thiên". Thánh Phaolô
tuyên xưng chỉ mình Thiên Chúa là "Đấng trường
sinh bất tử, ngự trị trong ánh sáng siêu phàm, Đấng
không một người nào đã thấy hay có thể thấy"
(1Tim 6,16). Vì Thiên Chúa vượt lên trên
vũ trụ và nhân loại nên "Tư tưởng của
Ta không phải là tư tưởng của các ngươi,
đường lối của Ta không phải là đường
lối của các ngươi" (Mt 16,23).
Nếu ai nói rằng mình hiểu được
Thiên Chúa thì chắc chắn vị Thiên Chúa ấy không còn là
Thiên Chúa đích thực nữa.
Những khám phá khoa học ngày nay không những
không làm tiêu hao niềm tin vào Thiên Chúa mà trái lại, càng làm
cho chúng ta cảm nhận rõ hơn tính bất khả đạt
thấu của Thiên Chúa. Ngân hà mà trái đất chúng ta là một
thành phần đã là vĩ đại rồi,
nhưng nó chìm nghỉm trong hằng tỉ giải ngân hà của
vũ trụ. Chính sự vĩ đại
ấy của vũ trụ lại càng làm nổi bật
tính vô biên và bất khả đạt thấu nơi Thiên
Chúa: "Chúng ta không thể khám phá Thiên Chúa đang điều
khiển thế giới cách ngây ngô như trước. Chúng
ta không thể làm thế, không phải vì Thiên Chúa đã chết,
nhưng vì Ngài là Đấng vĩ đại hơn nhiều,
Đấng không thể gọi tên, Đấng bất khả
đạt thấu, Đấng là nền tảng mọi sự"
(Karl Rahner, Science as a Confession, 389).
Cảm thức về tính bất khả
đạt thấu nơi Thiên Chúa giúp các Kitô hữu tránh
được nguy cơ rơi vào tình trạng mà một
nhà tư tưởng phê phán: "Không phải Thiên Chúa
đã tạo dựng con người theo
hình ảnh Ngài, nhưng chính con người đã làm nên
Thiên Chúa theo hình ảnh của mình". Một trong những
điều răn đầu tiên Thiên Chúa ban bố là:
"Ngươi không được tạc tượng, vẽ
hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng
như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước
phía dưới mặt đất, để mà thờ"
(Xh 20,4). Dân Chúa trong thời Cựu Ước
lại chẳng rơi vào tình trạng đó sao khi họ lấy
vàng đúc thành con bê rồi sụp lạy tung hô:
"Đây là vị thần đã đưa chúng ta ra khỏi
đất Ai Cập" (Xh 32,7)? Và
cơn cám dỗ ấy vẫn không ngừng tái diễn trong
lịch sử dưới nhiều hình thức khác nhau.
Thiên Chúa là Đấng
"ở trên" nhưng đồng thời lại là
Đấng "ở với" loài người. Đây là mạc khải
trung tâm và độc đáo của Kitô giáo. Kinh Thánh
tràn ngập cụm từ "ở với". Hầu
như khi sai bất cứ ai đi thi hành sứ mạng,
Thiên Chúa cũng chỉ hứa điều quan trọng nhất
là: "Ta ở với ngươi". Từ Môsê đến
Đức Maria đều thế cả (Xh 3,12;
Lc 1,28). Cho đến thời của Hội Thánh, lời hứa
của Chúa Kitô Phục sinh dành cho các môn đệ vẫn
là: "Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến
tận thế" (Mt 28,20).
Danh thánh Thiên Chúa mạc khải cho Môsê
(Xh 3,14) được dịch nhiều cách: "Ta là Đấng
hằng hữu", "Ta là Đấng hiện hữu",
"Ta là Đấng Ta là". Nhưng cũng có một cách
dịch khác mang tính hiện sinh hơn: "Ta là Đấng
hằng ở với anh em" (trong mọi hoàn cảnh, mọi
bước đường, mọi biến cố). Lời
hứa "ở với" ấy đã vươn đến
cao điểm trong Đức Giêsu Kitô, Đấng
được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa-ở-với-chúng
ta (Mt 1,23). Thiên Chúa ở với loài
người không những bằng sự hiện diện mà
còn chia sẻ phận người, kể cả những trạng
huống bi thảm nhất, để trong mọi hoàn cảnh,
kể cả sự chết, ta có thể cảm nhận
được tiếng nói: Cha ở với con.
Ratzinger có trang sách đẹp về trải
nghiệm sự chết khởi đi từ hình ảnh
đứa bé bị lạc lối trong rừng sâu và màn
đêm buông xuống. Cùng với bóng tối vây bủa chung quanh là nỗi hoang mang sợ hãi tràn ngập
tâm hồn. Trong giây phút ấy, điều mà cậu bé mong
chờ nhất không phải là bài học địa lý về
cánh rừng hoặc bài hướng dẫn khoa học tìm tọa
độ. Điều mong chờ nhất chỉ là có một
bàn tay chạm lấy và tiếng nói bên
tai: "Cha đây, nào chúng ta đi". Không có giây phút nào con
người cảm nhận nỗi cô đơn tột cùng
cho bằng khi đối diện với sự chết. Kể cả những người thương yêu
ta nhất cũng không thể đồng hành. Mọi lý thuyết về thế giới mai sau
dường như vô nghĩa. Điều mong đợi
duy nhất là sự hiện diện và đồng hành của
một ai đó trên con đường tăm tối. Và Chúa
Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã kinh qua sự
chết và đã sống lại, chính là Đấng duy nhất
đáp trả nỗi ước mong sâu thẳm về một
bàn tay nắm lấy và tiếng nói bên tai "Ta đây, nào
chúng ta cùng đi". Thiên Chúa ở với.
Thiên Chúa không chỉ ở với con
người mà còn ở trong họ. Theo quan điểm công
giáo, lương tâm là "tâm điểm sâu kín nhất và là
cung thánh của con người, nơi đây con người
chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa, và tiếng
nói của Ngài vang dội trong lòng họ" (Hiến chế
Vui Mừng và Hi Vọng, số 16).
Tin Mừng Gioan, Tin Mừng của đời
sống chiêm niệm, tràn ngập cụm từ "ở
trong": "Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.
Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy,
anh em sẽ ở lại trong tình yêu của Thầy, như
Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy
và ở lại trong tình yêu của Ngài" (15,9-10);
"Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một
Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh
em luôn mãi. Đó là Thần Khí Sự Thật,
Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế
gian không thấy và cũng chẳng biết Ngài. Còn anh
em biết Ngài vì Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh
em" (14,16-17).
Có chuyện kể về một guru đánh mất
chìa khóa vào nhà và quanh quẩn đi tìm chìa khóa ở bãi cỏ
trước nhà. Đám học trò thấy
thế bèn hỏi, "Thưa thầy, thầy tìm gì vậy?"
"Thầy mất chìa khóa vào nhà rồi".
"Để chúng con tìm giúp". Thế là ai nấy
hăng hái bới từng gốc cây, lật từng ngọn
cỏ để tìm. Tìm mãi không thấy, một học trò sốt
ruột hỏi: "Thầy có nhớ loáng thoáng là đánh
rơi ở đâu không?" "Có chứ, thầy nhớ
rõ là mình để quên ở trong phòng rồi sập cửa
lại". Đám học trò la lên: "Trời ơi, sao
bây giờ mới nói, mất chìa khóa trong nhà mà lại tìm ở
ngoài này, làm sao thấy được!" Ông thầy có dịp
cho học trò một bài học để đời: chúng
ta đánh mất chìa khóa của ngôi nhà hạnh phúc. Chìa khóa ấy ở trong tâm hồn nhưng chúng ta
lại mải tìm ở ngoài. Tìm đủ thứ, chiếm
hữu đủ thứ, hưởng thụ đủ thứ...
mà hạnh phúc vẫn biệt tăm. Thiên Chúa,
nguồn hạnh phúc, ở thâm sâu lòng người, nhưng
chúng ta mải tìm ở thế giới bên ngoài.
Đúng là "Chúa ở
trong con sâu hơn chính con" và "Con đi tìm Chúa bên ngoài
mà quên mất rằng Chúa ở trong con". Không chỉ là cảm nghiệm
của các nhà thần bí mà còn là trải nghiệm của mỗi
người nếu chân thành nhìn lại chính mình.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
Hội Thánh có sứ vụ giới thiệu
và loan báo cho con người Đấng Thiên Chúa ở trên, ở
với và ở trong con người cũng như lịch sử.
Nghĩa là phải loan báo Thiên Chúa trong tính toàn
thể. Xem ra không dễ dàng giữ
được sự quân bình và tính toàn thể ấy.
Có khi người Kitô hữu nhấn mạnh
đến Thiên Chúa ở trên (chiều kích siêu việt) và ở
trong (chiều kích nội tại) mà không quan tâm đến
Thiên Chúa ở với phận người, nên bị người
ta chê trách là lãng quên những thực tại trần thế.
Lại có khi nhấn mạnh đến Thiên Chúa ở với
(chiều kích dấn thân xã hội) mà quên Thiên Chúa ở trên
và ở trong, nên biến Hội Thánh thành cộng đoàn xã
hội thuần túy với chân trời và đường lối
hành động không khác gì những tập thể xã hội
khác. Làm thế nào để giữ được sự
quân bình và tính toàn thể của mầu nhiệm Thiên Chúa,
để có thể "ở trong thế gian mà không thuộc
về thế gian" (Ga 17,14-16), để
là "muối cho đời và ánh sáng cho trần gian"
(Mt 5,13-16). Sẽ mãi là một thách đố,
nhưng ít ra ý thức được điều ấy
cũng đã là lời nhắc nhở cần thiết cho sứ
vụ, lời nhắc nhớ mỗi ngày khi làm dấu thánh
giá trên mình và đọc "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần".
|