Corpus Christi - Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Nguồn gốc ngày lễ:
Vào năm 1246, tại Toà giám mục
Liège của Bỉ quốc, người ta thấy có cuộc
gặp gỡ bất thường giữa Đức Cha
Rôbectô de Thorate và sơ Juliana, một nữ tu khiêm hạ và
thánh thiện của Dòng Augustinô. Sơ Juliana đến xin
yết kiến vị Giám mục sở tại để
dâng lên một lời thỉnh cầu: xin giáo quyền cho
thiết lập ngày lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu.
Lẽ đương nhiên, vị
Giám mục thánh thiện và khôn ngoan Rôbectô đã hỏi vị
nữ tu về nguyên nhân hay động lực thúc đẩy
làm nên lời thỉnh cầu. Sơ Juliana thành thật trình
bày với Đức Cha rằng hồi nhỏ sơ có thấy
hình một vầng trăng rằm với một đốm
đen trên đó. Mãi về sau, trong một lần hiện
ra, Chúa Giêsu đã giải thích cho Sơ Juliana về ý
nghĩa của giấc mơ ngày xưa: vầng trăng rằm
tượng trưng cho chu kỳ phụng vụ trong
năm; đốm đen là vì trong chu kỳ đó vẫn
còn thiếu một ngày lễ để vinh danh Thân Mình Cực
Thánh của Chúa Giêsu.
Theo Sơ Juliana, ngoài Thứ
Năm Tuần Thánh, ngày tưởng niệm việc thiết
lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu còn muốn Giáo hội có
một ngày khác để tôn kính Mình Máu của Ngài. Kèm với
lời giải thích và tỏ bày ý muốn, Chúa Giêsu còn nêu lên
ba lý do của việc làm này: thứ nhất, Ngài khát khao niềm
tin vào Bí tích Thánh Thể được càng ngày càng vững
vàng mạnh mẽ nơi mỗi người Kitô hữu; thứ
hai, Ngài ao ước mọi tín hữu múc được sức
mạnh thiêng liêng nơi Bí tích Thánh Thể để có thể
can đảm thực thi các nhân đức; và thứ ba,
Ngài mong muốn người tín hữu có cơ hội sửa
chữa cho những phạm thánh và bất kính mà loài người
đã gây nên.
Dường như được
ơn Chúa soi sáng và sắp xếp, nên Đức Cha Rôbectô de
Thorate đã lắng nghe và tin tưởng những điều
Sơ Juliana nói. Thế rồi, chẳng bao lâu sau, ngài cho thiết
lập trong địa phận một ngày lễ kính Mình Thánh
Chúa hay còn được gọi là Corpus
Christi (tiếng Latinh). Đức Cha
cũng đã trình cho Đức Giáo hoàng Ubanô IV về những
gì ngài đang thực hiện trong địa phận. Và rồi,
đến năm 1264, Đức Ubanô đã cho công bố với
Giáo hội hoàn vũ việc chọn ngày thứ Năm sau lễ
Chúa Ba Ngôi làm ngày kính Mình Thánh Chúa cách đặc biệt.
Tập quán trên
đã được nắm giữ từ thế kỷ 13
cho đến những thập niên gần đây. Sau Công
đồng Vaticanô II, một vài sửa đổi đã
được thực thi, trong đó lễ Corpus Christi
được dời vào ngày Chúa Nhật sau Lễ Chúa Ba
Ngôi. Suốt hơn 8 thế kỷ trôi qua, cứ đến
ngày lễ Kính Mình Thánh Chúa, khắp nơi, trong nhiều giáo
xứ, người ta tổ chức chầu lượt,
lôi cuốn biết bao nhiêu giáo hữu đến kính thờ
suy tôn Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể.
Tuy cũng có những
người chống đối và tìm cách loại trừ
ngày lễ này khỏi lòng tín hữu, nhưng những cố
gắng đó cũng chỉ hoài công. Lịch sử có ghi nhận:
trong cuộc Chiến tranh Ba Mươi Ngày bên Châu âu, quân
đội Thuỵ Điển đã bao vây một làng
Wuerzburg tại Bavaria. Vị quan chỉ huy đã đưa ra nhiều
nghiêm lệnh nhằm khống chế dân chúng. Trong đó có
lệnh cấm tổ chức rước kiệu trong ngày
lễ Corpus
Christi
sắp đến. Các thầy Dòng Camêlô đang cư ngụ
trong làng đã phải đối diện với tình hình tiến
thoái lưỡng nan: trong khi Thiên Chúa Cha muốn cử hành
ngày lễ tôn kính Con Ngài thì vị chỉ huy quân đội
Thuỵ Điển lại ngăn cấm, nếu không muốn
bị tử hình. Nhưng cuối cùng các vị tu sĩ
đã chọn vâng theo ý Thiên Chúa. Thế là một cuộc
rước long trọng với linh mục kiệu Thánh Thể
từ nhà thờ qua cổng làng đã diễn ra. Lập tức
quân đội được phái đến. Súng ống,
gươm giáo dàn ra đe doạ. Không sợ hãi, thầy
Agapytus hiên ngang rẽ đám đông tiến lên. Đứng
trước hàng quân đang lăm le vũ khí, thầy bảo
họ hãy quỳ gối xuống trước Thiên Chúa,
Đấng Tạo Hoá. Lạ lùng thay, cả đoàn binh
đã đồng loạt quỳ xuống, không ai dám thi hành
lệnh phá hoại cuộc rước của quan chỉ
huy! Thế là dân chúng lại tiếp tục hồ hởi
cung nghinh Mình Thánh Chúa qua các nẻo đường đã
định. (x. Homilies, Thomas L. Kemp)
Ý nghĩa lễ Corpus Christi:
Lễ Corpus
Christi được lập ra để nhắc nhở với
người giáo hữu về một tình mến bao la vô tận.
Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi
đã ban người Con yêu dấu của Ngài, để mặc
lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống
như người trần thế. Sự hạ mình từ
một Thiên Chúa cao sang xuống mang kiếp người
để chia sẻ thân phận khốn cùng và cứu chuộc
nhân loại đã là một lối tỏ tình quá sức
tưởng tượng. Ấy thế mà, làm như
chưa thoả, Thiên Chúa lại còn hạ mình trở thành tấm
bánh, vật vô tri vô giác, còn thấp hơn bất cứ một
loài thụ sinh nào.
Lắm người
cảm nhận mình như là quả banh, cây chổi, viết
chì trong tay Chúa. Quả là những tâm tình khiêm hạ đáng
quí. Nhưng khi so với sự khiêm hạ của Thiên Chúa
khi trở nên tấm bánh nuôi dưỡng tâm hồn người
ta thì vẫn là một cách biệt không thể đo lường.
Thánh Bênađô từng
nói: “Tình yêu không phân biệt giai cấp.” Còn Thánh Phêrô Kim khẩu
thì viết: “Khi yêu, người ta bất luận giàu nghèo,
cũng không màng cân xứng, không ngại khó khăn, nhưng
miễn sao thoả lòng ao ước là được.” Một
linh mục khác cũng nhận xét rằng khi yêu chẳng ai
nói với nhau: “Tôi là con nhà giàu, có bằng tiến sĩ vật
lý, còn em chỉ là con bé nhà quê ít học, cho nên em phải biết
thân biết phận của mình”. Không thế được!
“Không thể có thái độ kênh kiệu như thế trong
tình yêu chân thật” (Lm. Nguyễn Khảm, Nghe Trong Thinh Lặng).
Đúng hơn, người ta sẽ khiêm tốn hạ mình
để chỉ thấy người yêu chính là đối
tượng duy nhất và tất cả.
Thế ra, vì
yêu thương nên Thiên Chúa đã khiêm tốn hạ mình làm
người, và hơn thế nữa, Ngài lại còn hạ
mình làm thành tấm bánh đơn sơ bé nhỏ cho người
ta dễ ăn, hầu được nên một với con
người. Nên một là đặc tính của tình yêu. Có
yêu nhau người ta mới muốn nên một và sợ bị
chia ly. Thánh Anphong từng suy gẫm rằng: “Vì Chúa khao khát
ta rước lấy Ngài trong phép Thánh Thể, nên Ngài mời
gọi: ‘Hãy đến ăn bánh Ta ban và uống rượu
Ta dọn’ (Cn 9:5). ‘Ăn đi hỡi các bạn. Uống
đi! Say đi hỡi các bạn yêu dấu’ (Dc 5:1). Chúa mời
gọi ta chưa đủ, Ngài còn ra luật buộc ta nữa:
‘Hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Ta’ (Mt 26:26). Và Ngài hứa
ban sự sống đời đời cho những ai chịu
lấy Ngài: ‘Ai ăn bánh này, thì sẽ được sống
đời đời’ (Ga 6:51). Nếu ta không vâng giữ lời
Ngài, thì Ngài ngăm đe: ‘Nếu các ngươi không ăn
thịt và uống máu Con Người, các ngươi sẽ
không có sự sống nơi mình các ngươi’ (Ga 6:53). Tất cả những lời
mời gọi, những lời hứa ban, và những lời
khuyên răn hiệp cùng ta trong bí tích Thánh Thể, để
tình yêu thương được mật thiết hơn”.
Kỳ lạ
làm sao tình Chúa yêu nhân thế trong Bí tích Thánh Thể! Nhưng
có lẽ cũng kỳ lạ không kém khi con người dửng
dưng, lạnh lùng và xem thường việc rước
Chúa. Không ít người cảm thấy nguội lạnh, chẳng
xứng đáng được Chúa ngự vào. Nhưng những
người đó hãy ghi nhớ lời Thánh Catarina Xiêna: “Kẻ
nói mình nguội lạnh, không dám rước lễ cũng
giống như người biết mình bị cảm lạnh
mà không chịu đến lò sưởi ấm, ấy thật
là dại dột.” Thế nên, càng biết mình nguội lạnh,
khô khan, hay hèn yếu, ta càng phải siêng năng đến
gần với lò lửa tình thương đang bừng
cháy. Các thánh khuyên ta hãy siêng năng rước lễ vì “một
lần rước lễ được nhiều ơn ích
hơn một tuần ăn chay” (T. Vincentê Phêriê).
Nếu không thể
rước Chúa cách trực tiếp thì cũng hãy rước
lễ cách thiêng liêng. Với lòng ước ao rước
Chúa cũng đủ để khử trừ mọi tội
nhẹ và giữ gìn ta khỏi các tội trọng rồi. Nếu
không thể đi dâng Lễ hàng ngày, thì hãy đọc lên lời
nguyện “Rước lễ Thiêng liêng” sau đây để
lửa mến Chúa được bừng cháy luôn trong tâm hồn:
“Lạy rất thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu. Bởi Chúa hằng
muốn kết hợp cùng con trong phép Thánh Thể, nên lòng
con khát khao rước Chúa ngự vào lòng con lắm. Song bây
giờ con chẳng được rước thật Mình
Máu Thánh Chúa, thì ít nữa lại xin Chúa hãy ngự vào lòng con
cách thiêng liêng. Lạy Chúa xin hãy ngự vào lòng con”.
Xin cho ngày Lễ Corpus Christi đốt
lên trong ta ngọn lửa kính mến và lòng khát khao được
kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể, hầu sức sống
luôn chứa chan và bình an hằng tuôn tràn trong cuộc đời
chúng ta.
|