MĐLC Chương 1: Lúc Ban Đầu
§ Lm Phêrô Hoàng Minh Tuấn, DCCT
Phần I: Hiện Tượng Mễ Du
Chương 1
21.
“Sẽ xảy ra trong những ngày sau hết, Thiên Chúa phán: Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên mọi xác phàm, Và con trai con gái các người sẽ tuyên sấm, Thanh niên của các người sẽ thấy thị kiến, kẻ già lão trong các người sẽ chiêm điềm mộng. Và cả trên các tôi trai, tớ gái của Ta, trong những ngày ấy, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta xuống và chúng sẽ nói tiên tri. Ta sẽ tung ra điềm thiêng tại trời trên cao, cùng những dấu lạ trên mặt đất phía dưới, máu cùng lửa và khói hơi nghi ngút. Mặt trời biến thành tối tăm và mặt trăng sẽ thành máu, trước khi đến Ngày vĩ đại, huy hoàng của Chúa. Và sẽ xảy ra là mọi kẻ kêu danh Chúa sẽ được cứu”. (Công vụ Tông đồ 2,17-21)
21 bis. Tại một thôn xóm ở Medjugorje, chìm khuất trong rặng núi đồi miền Tây Nam nước Nam Tư (cũ), Người Mẹ Hồng Phúc của Chúa Giêsu Kitô bất ngờ hiện ra một chiều nọ với hai thiếu nữ. Choáng váng, hoảng sợ và bối rối, hai em bỏ chạy. Cũng lại chiều hôm ấy, ngày 24-06-1981, trễ hơn một chút, hai thiếu nữ nói trên cùng với mấy thiếu niên nam nữ khác lại trở lui và thấy Đức Trinh Nữ Maria tại cũng chỗ cũ, ở chân núi Podbrdo (Po-đơ-bơ-đô), nay quen gọi là Đồi Hiện Ra. Lần này, Đức Trinh Nữ bồng Hài Nhi Giêsu. Người gọi chúng và chúng nghe tiếng Người, chúng thấy Người và Hài Nhi rất rõ ràng, mặc dù cách xa một quãng chừng bằng 3 sân đá banh.
Cái khởi đầu khiêm tốn ấy đã khai mở điều có thể gọi là một loạt những cuộc Hiện Ra quan trọng nhất trong lịch sử địa cầu, bởi vì Đức Mẹ nói: Đây là lần Hiện Ra sau chót trên trần gian. Cuộc Hiện Ra kéo dài suốt hơn 10 năm trời.(a) Đức Mẹ hiện nay vẫn tiếp tục hiện ra mỗi ngày với các em. Người đã trao 10 bí mật, mà người ta cho là bao gồm những chương cuối cùng của lịch sử thế giới. Theo các em thị kiến thuật lại, thì Người bảo rằng: Sau khi các bí mật được thực hiện, Người không còn cần phải đến lại trên trái đất nữa.
22. Nơi xảy ra các cuộc Hiện Ra hằng ngày kể từ 1981 đến nay, là sân khấu của một lịch sử đầy bạo lực và máu lửa, bắt nguồn từ ít nhất cả ngàn năm, và ngày nay vẫn còn tiếp diễn cách khủng khiếp.(b) Đức Mẹ nói với các thị nhân:
“Ta là Nữ Vương Hòa Bình, Ta là Mẹ Thiên Chúa, Ta là Mẹ của mọi người trên trái đất”.
Các em kể lại: Người hiện ra, đứng trên một cụm mây, mặc áo dài xám, đầu chùm khăn voan trắng dài đến gót và trên đầu có 12 ngôi sao tết thành triều thiên. Cụm mây có cái lạ là nó che phủ không cho các em thị kiến thấy chân hay giầy của Người. Người tiếp xúc với trái đất đầy máu lửa này qua sáu thiếu niên nam nữ ở Medjugorje. Tên của chúng là:
Mirjana Dragicevic Soldo, 16 tuổi, Ivanka Ivankovic Elez, 15 tuổi, Ivan Dragicevic, 16 tuổi, Marija Pavlovic, 16 tuổi, Jacov Colo, 10 tuổi, và Vicka Ivankovic (17 tuổi, không bà con gì với Ivanka cả).
23. Phải chăng đây là những ngày cuối cùng ? Phải chăng loài người đang đứng trên bờ vực thẳm của sự tự hủy diệt ? Phải chăng Đức Mẹ đến nói cho thế giới điều ấy ? Vũ khí cho đại họa ấy có đó rồi. Trẻ con mẫu giáo cũng có thể thấy những phương tiện của cuộc hủy diệt toàn diện ấy trên màn ảnh truyền hình, khi chết chóc và hủy diệt đã nổ ra bao năm rồi ở Trung Đông (và nhiều nơi trên thế giới). Thế mà Đức Mẹ lại tự xưng là Nữ Vương Hòa Bình! Các em thị kiến cho biết Đức Mẹ xinh đẹp đến nỗi không có lời nào tả nổi. Chúng nói: Mẹ “thuần túy là tình yêu”. Sự Hiện Ra của “tình yêu thuần túy” lại trùng với một miền đất máu lửa, điều đó gây ra một tương phản bi đát. Miền đất ấy tự nó đã nghiệt ngã. Dân chúng phần đông cho thấy rõ điều đó qua cách ăn ở vốn là dấu vết của một quá khứ đầy áp chế và thiếu thốn.
24. Medjugorje có nghĩa là “ở giữa các núi”, mà quả đúng như vậy. Hàng ngàn năm trước đây, biển đã lấp đầy cái thung lũng ngăn đôi nó với rặng núi. Ở đây, trong miền đất nghèo nàn và kém phát triển nhất của Bosnia Herzegovina, đất đai thường là đất đá cằn cỗi. Việc trồng thuốc lá và nho bắt đầu từ thời trung cổ, thì chỉ cho những mùa màng không mấy dồi dào. Trong tình cảnh thiếu thốn như vậy vào thời đầu các cuộc Hiện Ra, thường thấy thịnh hành việc những người đàn ông khoẻ mạnh đi hợp tác lao động ở nước ngoài như Tây Đức hoặc Ý, còn đàn bà và trẻ con thì ở lại nhà coi sóc ruộng rẫy và súc vật. Nhờ việc hợp tác lao động cực nhọc ấy, người ta kiếm ta tiền để sắm xe hơi, máy truyền hình, các tiện nghi nội thất như máy giặt, phòng tắm, v.v...
Các phụ nữ cao tuổi trong làng vẫn còn ăn bận theo y phục truyền thống: áo và váy đen của góa phụ, vì đa số quả thật là góa phụ: chiến tranh thế giới thứ hai đã cướp đi những ông chồng của các bà, còn những ông sống sót thường chỉ là những người ốm yếu vì làm lụng vất vả và thiếu dinh dưỡng. Tài sản người ta mong có được ở Medjugorje này, hiện thời vào năm 1981, vẫn là chiên cừu, bò, gà, lừa và dê thả lang thang trên những con đường đất bụi bặm. Phụ nữ và trẻ con coi sóc đàn gia súc trong ngôi làng này gồm 400 gia đình, sống dưới những mái nhà ngói đỏ chật hẹp, tường trét vôi trắng. Nhà nào cũng có một khoảng vườn nhỏ, nhưng đất thì thường cằn cỗi. Các bậc già lão, vốn là một ít người còn sống sót sau đệ nhị thế chiến, bây giờ nghỉ ngơi, vui thú tuổi già. Mùa hè, nhiều cụ ngồi ngoài nắng im lặng nhìn cuộc sống diễn ra chung quanh. Mùa đông, các cụ ngồi bên lò sưởi hay đánh cờ, uống rượu. Cũng có cụ làm việc ngoài rẫy.
Từ 700 năm trước, dân chúng có tập tục vào Mùa chay ăn chay bằng bánh mì và uống nước lã. Tập tục này bắt nguồn từ thời Thánh Phanxicô Assidi, khi Người gửi nhóm thừa sai đầu tiên đến Cộng Hòa Herzegovina và sau là đến Medjugorje. Thánh đường vẫn luôn là trung tâm đời sống của làng. Thánh đường Thánh Giacôbê khá bề thế, có hai tháp chuông và có thể chứa khoảng 1.600 người. Đằng sau nhà thờ, băng qua ruộng rẫy, sừng sững ngọn núi Thánh Giá cao 540m và dọc theo con đường dốc đá lởm chởm, có dựng 14 chặng đàng thánh giá dẫn lên tới chóp núi, trên đó dân làng đã dựng một cây thập giá lớn bằng bê-tông vào năm 1933, để kỷ niệm 1900 năm Chúa đã chịu đóng đinh. Cây thánh giá ấy cũng có một ý nghĩa thực tế. Từ khi nó được dựng lên, những trận mưa đá đã từng trút xuống ngôi làng đổ vỡ và chết chóc, nay ngừng hẳn. Cây thập giá ấy không những đã đổi tên núi Sipovac thành Krizevac (Núi Thánh Giá), mà còn đổi cả dòng đời của họ.
25. Đối diện với Núi Thánh Giá Krizevac là một ngọn núi khác nhỏ hơn, được gọi Podbrdo. Chính đây là nơi Đức Nữ Trinh Maria Phúc Lộc đã hiện ra lần đầu tiên với hai thiếu nữ, đang khi chúng đi dọc theo con đường cát bụi thuộc khu vực xóm Bijakovici. Hai cô gái này là bạn thân từ lâu. Ivanka Ivankovic, 15 tuổi, sống ở Mostar (thị xã và có tòa Giám mục), nhưng mùa nghỉ hè, cô về sống với ông bà ở xóm Bijakovici, nơi gia đình cô có một vườn rẫy trồng nho. Còn Mirjana Dragicevic, 16 tuổi, lại sống ở Sarajevo, thủ phủ của Bosnia, và cũng về nghỉ hè tại nhà bà nội ở xóm Bijakovici này.
Ngày lễ Thánh Gioan Tẩy Giả – 24-06-1981 – một vầng ánh sáng huyền diệu phủ trên khắp ngọn núi nhỏ (núi Podbrdo) ; trong ánh sáng đó, hai cô gái thấy hiện ra một thiếu phụ cực kỳ xinh đẹp đang bế một hài nhi mà bà mở khăn bọc ra để cho hai cô trông thấy. Lòng bán tín bán nghi, tuy nghe tiếng vời gọi, song hai cô sợ hãi bỏ chạy.
Hai thiếu nữ về kể lại cho bạn bè, rồi cả nhóm trẻ rủ nhau trở lại chân núi thì thấy Bà ấy vẫn còn đó. Chúng ngờ vực không hiểu có phải là Đức Trinh Nữ Maria không và lại bỏ chạy vì sợ hãi. Gia đình của chúng nói: “Tại sao Đức Mẹ lại đến đây làm gì?”. Có người còn nói với Ivan, 16 tuổi, là một người trong nhóm: “Chúng bay có phải là thánh đâu !”. Nhiều người trong các gia đình chúng còn thách thức: “Sao chúng bay dám bịa đặt ra là đã thấy Đức Mẹ Chúa Trời ! Thật là lộng ngôn !”. Nhưng không phải tất cả gia đình các em đều không tin cả đâu.
Vicka, gần 17 tuổi, cũng là một người trong nhóm, má của cô có tính dịu dàng hơn. Bà hỏi: “Có thật con đã thấy Đức Trinh Nữ?”. Vicka tin chắc là thật đến độ cô nói cô sẵn sàng chết hơn là chối bỏ việc Hiện Ra ấy. Bà của Vicka thì khôn ngoan hơn, nói: “Có thể đó là ma quỉ hiện hình. Đôi khi nó trá hình thành thiên thần ánh sáng để đánh lừa dân chúng”. Vicka vặn lại: “Làm sao con biết được ? Chỉ biết Bà nay xinh đẹp lắm ! Con tin Bà từ trời đến !”. Bà nội Vicka nói thêm: “Nếu cháu còn thấy Bà ấy nữa, hãy lấy nước phép mà rẩy vào đó. Ma quỉ rất sợ nước phép. Lúc đó mới biết là thật hay giả”. Chẳng mấy chốc, mọi người đều bàn tán về chuyện đó.
Marinko là bạn hàng xóm của Vicka, sáng hôm sau đem xe chở Vicka và bạn cô là Marija đến trường. Khi xe chạy ngang qua nhà thờ giáo xứ, thánh đường Thánh Giacôbê, Marija nói cho Marinko biết: “Này anh Marinko, chiều hôm qua, Vicka và mấy bạn đã xem thấy Đức Mẹ”. Marinko phì cười: “Các cô gái thường hay lắm chuyện. Này, trời còn quá sớm để nói giỡn, nghe chưa ?”. Lúc ấy mới 5g sáng. Vợ Marinko chăm chú nhìn Vicka, song cô này vẫn thinh lặng, thái độ đó là chuyện mới lạ nơi Vicka. Cô có tiếng là trực tính và khăng khăng bảo vệ ý kiến mình. Vậy mà sáng hôm ấy, 25-06-1981, Vicka hình như không còn để ý tới ai trên xe. Vợ Marinko gọi: “Này Vicka ! Cô đã thấy Đức Trinh Nữ Maria thật sao ?”. Bất thình lình, mắt Vicka ngời sáng: “Phải, tôi đã thấy chính Đức Mẹ. Người ẵm Hài Nhi Giêsu. Người giơ Ngài ra cho chúng tôi xem”. Marinko xuống nước: “Có ai khác đi chung với cô không, Vicka ?”. Vicka đáp: “Có Ivanka, Mirjana, Milka (em út của Marija) và cả Ivan nữa”. Marinko cắt ngang: “Ivan Dragicevic phải không ?”. Vicka trả lời: “Đúng, Ivan Dragicevic !”. Marinko tiếp: “Nếu Ivan nói là cậu ấy đã thấy Đức Trinh Nữ, họa may tôi còn tin, Vicka ạ ! Ivan cũng thấy ? Đáng ngạc nhiên lắm ! Cậu ấy không phải hạng người hay nhiều chuyện như bọn con gái các cô !”. Marija thở dài: “Mong sao tôi cũng được có mặt nơi Đức Mẹ hiện ra. Chỉ cần được gần Mẹ, thế là đủ cho tôi rồi !”. Vicka im lặng suy nghĩ, không còn để ý gì đến quãng đường đưa cô tới Citluk, quận lỵ gần đó, nơi Marinko đỗ xe cho hai cô gái đến trường.
26. Chiều hôm ấy, 25-06-1981, Vicka tới ngọn núi nhỏ. Cô gặp Mirjana, có cả Jacov, 10 tuổi, một cậu bé láng giềng, cùng đi theo. Cậu háo hức đến nỗi cậu kéo tay Mirjana đi. Vicka nghe cậu bé nói: “Em mong được thấy Đức Mẹ hơn bất cứ cái gì trên đời ! Nói cho em biết Đức Mẹ trông ra sao ?”. Vicka không quen Jacov lắm, nhưng mọi người trong xóm đều biết cậu sống trong một gia đình rất bất ổn. Thật đáng buồn, nhất là từ khi cha cậu bỏ gia đình ra đi hồi cậu còn nhỏ.
Marija vội vã đi lên con đường bụi bặm và nói: “Milka (em gái cô, là một trong số những trẻ đã thấy Đức Mẹ chiều hôm trước) không đến được. Má tôi bắt nó ở nhà làm việc cho tôi đi theo các bạn”. Vicka hớn hở nói: “Tôi biết chúng ta sẽ lại thấy Người !”. Ivan hỏi: “Nhỡ ra Người không đến thì sao ?”. Vicka tuyên bố chắc nịch: “Người sẽ đến mà, tôi biết chắc thế !”.
Khi chúng đến chỗ chiều hôm qua đã thấy hiện tượng, thì Ivanka ở đó rồi. Ivanka băn khoăn hỏi: “Các bạn có nghĩ là chúng ta sẽ lại thấy Người không ? Tôi muốn hỏi Người về má tôi”. Hiện nay, cả làng Medjugorje cầu nguyện cho Ivanka, vì má cô vừa mất đột ngột vào trung tuần tháng 5. Đó là một phụ nữ còn trẻ, rất xinh đẹp và đạo đức. Cái chết của bà làm mọi người xúc động và buồn bã. Ivanka đã khóc không ai can nổi trong đám tang, và khi đến huyệt, cô đã nhào xuống nằm trên quan tài, không muốn cho phu đào huyệt chôn mẹ mình. Từ ngày đó, Ivanka được mọi gia đình trong làng coi như con của mình. Ai ai cũng muốn giúp đỡ cô.
Bạn bè của nhóm trẻ và nhiều người tò mò khác – không biết bao nhiêu người – chiều này cũng đến tại nơi đó lúc 6g40. Sáu thiếu niên nam nữ này giờ đây đã trở thành những thị nhân nổi tiếng nhất trong lịch sử Kitô giáo. Chiều đó, chúng đều nói là cảm thấy một sự thôi thúc bên trong hay là một lời kêu gọi phải đi tới núi này – một thúc bách rõ ràng không thể nào lờ đi được.
Thế rồi, vầng sáng bao la bừng lên, báo trước việc Hiện Ra. Rồi các em đã thấy. Quỳ gối, sáu em ngây ngất xuất thần. Hiện tượng xuất thần này ngày nào cũng xảy ra cho đến nay (lúc viết sách này, 1991) là đã hơn 10 năm. Và sáu em: Mirjana, Ivan, Ivan, Marija, Jacov và Vicka – từ chiều hôm đó, tháng 06-1981 – đã nhận được cả một thiên tình sử của Thiên Chúa để nói lại cho nhân loại, đó là: Thiên Chúa yêu thương loài người, Người hiện diện trong thế giới, trong đời sống của mỗi người, Người có một kế hoạch cho mỗi người trên trái đất. Là những thị nhân bị tra cứu, bị khám nghiệm nhiều nhất trong lịch sử, các em lại chỉ là những thiếu niên miền núi khiêm nhường, đơn sơ.
Trong những năm từ đó đến nay, các em đã trở nên biểu tượng cho nhân loại ; khi chúng lớn lên, đạt sự trưởng thành giữa những điều tra khắt khe của Giáo Hội Công Giáo La Mã và cả hệ thống thông tin đại chúng của thế giới tân tiến. Theo chỗ được biết, chưa từng có ai trong lịch sử Hội Thánh dám bảo đã được thấy Đức Mẹ hằng ngày trong 11 năm trời, đồng thời chuyển đến toàn thể nhân loại những thông điệp của Mẹ Thiên Chúa hiện ra lần sau chót trên trái đất.
Thế thì cái gì đã xảy ra lần thứ hai chiều 25-06-1981 ấy, khi Đức Mẹ tự xưng là Nữ Vương Hòa Bình ? Các em thuật lại rằng: “Chúng tôi lên đồi. Trước mặt chúng tôi là một bức tường ánh sáng bao la vô tận”. Các em sợ không dám đi qua, vì xem ra không có cách nào đi xuyên qua được. “Chúng tôi nghĩ ngọn đồi sẽ tan chảy ra mất. Nghĩ đến điều có thể sắp xảy ra, chúng tôi liền bỏ chạy”.
Sau khi chạy khoảng 30m, các em quay đầu nhìn quanh xem ánh sáng có đuổi theo không ; nhưng các em sửng sốt hết sức, vì thấy vầng sáng di chuyển về hướng núi Thánh Giá, cạnh núi Podbrdo, nơi các em đang đứng.
Từ sau vầng ánh sáng, bắt đầu lộ ra một người phụ nữ đẹp xinh, và sự hiện diện của bà làm chói mắt. Các em lại bỏ chạy mau hơn trước. Sau khi chạy chừng 20m trong kinh hoàng, xuyên qua các bụi gai và những lùm cây của đồi, trên những đá lởm chởm sắc bén của mảnh đất xù xì, các em ráng nhìn về phía người phụ nữ đẹp tuyệt vời, mà các em thấy như thể được bao trùm trong ánh sáng chói lọi, làm cho các em có cảm tưởng rằng Bà “khoác ánh sáng mặt trời” (Kh 12.1).
Các em nghe Bà gọi và thấy hai tay bà giơ ra vẫy các em lại gần. Về đến nhà, chúng bắt đầu kể lại: “Cháu thấy một vầng sáng khổng lồ...”, “Con cũng vậy !”, “Sau vầng ánh sáng, chúng con thấy Đức Mẹ, Người xinh đẹp vô ngần !” ; còn các trẻ khác ngoài nhóm chỉ thấy có ánh sáng thôi.
Đêm đó, dân trong làng không ai ngủ được. Hình như mỗi người nhớ lại cảnh chiều hôm ấy với các lời nhóm trẻ kể lại. Phần đông người trong làng – chứ không phải tất cả – đều ngờ vực không tin lời các em. Ngược lại, nhóm trẻ thì tin chúng, có đứa nói: “Ngày mai, em muốn cùng đi với các anh chị, các anh chị có cho các em đi theo không ? Em cũng muốn thấy Đức Mẹ”. Tất cả chúng cũng bị khích động, không đứa nào ngủ được. Cha mẹ các em thị kiến cũng không ngủ được vì lòng họ tràn ngập âu sầu, lo lắng...
Cha mẹ các em linh cảm thấy cuộc bách hại hầu như sắp xảy ra, và cũng có vài vị bảo các em không được nói về chuyện này nữa: “Xin các con đừng nói những chuyện này, vì đó là có tội. Làm sao các con có thể thấy Đức Mẹ được ?”. Họ âu sầu, vì nghĩ rằng có cái gì trục trặc nơi các em: có thể chúng bị bệnh do trời nóng bức, hoặc chúng bị ảnh hưởng bởi nỗi buồn mất mẹ của Ivanka, hoặc vì những lý do nào khác mà họ không hay biết. Điều gì xảy ra nếu mấy đứa chúng nó bị rối loạn tâm thần ? Thế là họ canh chừng các em chặt chẽ, cách riêng sáu em thị kiến. Họ nhận thấy chúng đều vẫn bình thường trong hết mọi chuyện khác, trừ chuyện xảy ra trên núi. Họ tự hỏi: “Cái gì đã xảy ra ? Có lẽ chúng bị xách động ? Hoặc giả có ai đó rỉ tai chúng và khiến chúng phải nói những chuyện ấy ?”. Thành ra cũng có người gạt bỏ, không thèm tin những chuyện nhảm nhí đó. Họ nói: “Tụi trẻ này đâu phải thánh thiện gì mà được Đức Mẹ hiện ra. Đức Mẹ không bao giờ đến đây”. Đang khi ấy, nhóm sáu em thị kiến cứ phải kể đi kể lại hằng trăm lần câu chuyện ấy cho những người ùn ùn đến nhà dò la tin tức.
27. Đêm đã tàn. Rạng đông tới. Nhiều người nhất định sẽ theo các em lên núi chiều nay. Họ sẽ tận mắt xem điều gì xảy ra.
Chiều 26-06, hầu như tất cả làng đều kéo lên núi. Người đi bộ, người trên xe chở hàng, người khác trên lưng lừa hay xe lừa kéo. Quang cảnh ấy cho người ta cái cảm tưởng đang ở thế kỷ 19 hơn là ở thế kỷ 20. Hơn 5.000 con người kéo lên trên núi ấy, lúc các em bắt đầu cầu nguyện. Vicka hướng dẫn cả nhóm cầu nguyện bằng 7 kinh Lạy Cha, 7 kinh Kính Mừng, 7 kinh sáng Danh. Bà của cô bảo rằng đọc như thế để tỏ lòng tôn kính Bảy sự Thương Khó của Đức Mẹ. Vicka còn bảo cả nhóm đọc thêm kinh Tin Kính. Rồi cô thấy vầng ánh sáng xuất hiện trên núi và luồng sáng bao la ấy tràn ngập các em. Khi luồng sáng tan đi, các em thấy Bà đẹp tuyệt vời đứng đó với nụ cười xinh tươi, đến nỗi các em sững sờ không nói được gì. Mắt Bà lộ ra toàn yêu thương. Sự xuất thần bắt đầu. Vicka đứng dậy. Cô cầm bình nước phép bên tay trái và một cành hồng bên tay phải, rồi vừa vẩy nước phép theo hình Thánh Giá, vừa nói: “Nếu bà là quỉ Satan, thì hãy biến khỏi đây !”. Bà ấy mỉm cười đượm đầy yêu thương vui vẻ và Bà vẫn đứng lại không đi. Rồi Bà nói:
“Đừng sợ, hỡi các thiên thần của Mẹ,(c) Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình, Mẹ là Mẹ của mọi người trên thế gian”
Vicka quay lại phía đám đông và nói: “Các ông, các bà đã thấy rồi chứ ? Chúng tôi đã nói toàn sự thật” (chắc cô tưởng mọi người đều thấy Đức Mẹ và nghe được lời Người như các em). Kỳ thật, chẳng ai thấy gì ngoài sáu trẻ đang ngất trí và được bao phủ trong vầng sáng bao la. Có ai đó la to: “Phải chăng ánh sáng đó là của Đức Trinh Nữ Hồng Phúc ?”. Như thế, tất cả mọi người đều thấy vầng ánh sáng ấy. Thế cũng đủ cho họ rồi. Sự thinh lặng của họ, đó là món quà họ tặng cho Đức Mẹ từ trời đến, đang ở ngay đây với họ trên núi này, giữa vầng ánh sáng huyền diệu, nhiệm mầu.
28. Từ giờ phút ấy, các giáo dân xứ Medjugorje theo các em và tin các em. Họ đã có được dấu chỉ dành cho họ rồi: họ đã nhìn thấy vầng ánh sáng. Đức Giám Mục đến. Ngài và nhiều linh mục bắt đầu tin chắc chắn vào các cuộc Hiện Ra của Đức Trinh Nữ Diễm Phúc, từ khi đó đã diễn ra hằng ngày vào lúc 6g40 chiều.
Tin đồn lan đi nhanh như thuốc súng khắp vùng ấy và xa hơn. Công an cảm thấy lúng túng (......).(đ)
29. Ngày 27-06, các em được đám đông quần chúng vây quanh, nhiều người trong họ là tín hữu, nhưng đa số thì nghi ngờ và có ý định lật mặt nạ trò lừa bịp này. Cha Xứ Jozo Zovko lại ngược với Đức Giám Mục, Cha không tin các em. Nghĩ rằng có thể mấy đứa trẻ đã dùng những chất ma túy từ Sarajevo nhập lậu về Medjugorje, hoặc chúng say rượu, hay bị khủng hoảng thần kinh nhân vụ mẹ của Ivanka chết, nên Cha giữ thái độ hoài nghi và tỏ ra cứng rắn. Sau này, Cha thừa nhận: “Đức tin là một ơn huệ”.(đ bis) Tôi đã nhờ cầu nguyện mà được Chúa ban ơn đức tin. Trước đó tôi đã không tin, ngay cả lời Đức Giám Mục”.
Quả thật, Đức Giám Mục đã nói chuyện với Cha Jozo năm bận. Hai lần Ngài đã giảng cho giáo dân rằng: “Các em không nói dối, mà nói sự thật. Chúng ta nên theo các em và nghe các em. Tôi còn tin Medjugorje hơn là Fatima”.
tiếp ...
(a) Năm 1991, lúc viết sách này. Đến nay, 1997, đã gần 16 năm. Đức Mẹ hiện nay vẫn tiếp tục hiện ra mỗi ngày.
(b) Ám chỉ cuộc nội chiến 1991-1996 tại Nam Tư. Các báo đài đã tường thuật.
(c) Đức Mẹ thường gọi mấy em như thế. Đó là cách gọi âu yếm, thân mật mà các cụ bà ở Mễ Du thường dùng để gọi các cháu.
(đ) Bỏ đi vài đoạn không cần thiết. Chúng tôi đánh dấu bằng (......)
(đ bis) Ý muốn nói: Theo cách tự nhiên, mỗi người không dễ mà tin, vì có sẵn trong ta biết bao rào cản đã tích lũy từ những năm tháng của cuộc sống: nào nếp giáo dục, nào thành kiến, lối suy tư riêng, tập quán... Bây giờ phải gạt bỏ tất cả các thành lũy, rào cản đó... để chấp nhận tin một điều khác lạ, quả không dễ chút nào ! Vì thế, ta sẽ nghe thấy nói nhiều lần Đức Mẹ nhắc nhở: Hãy cầu xin cho người vô tín, để họ được ơn đức tin.
Lm Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR
|