(94) Tình Vợ Chồng Trong Chúa
§ Lm Phêrô Hoàng Minh Tuấn, DCCT
(Bài ký thuật của Bonnie D. Ragas, La Place, Louisiana. Trong: Medj. Magazine, số Mùa đông 1998-99)
A. Gene, chồng tôi là một người Công giáo đạo dòng, không bao giờ bỏ lễ Chúa nhật, nhưng đó là tất cả đạo của anh. Anh tưởng là chỉ cần cầu nguyện khi đau yếu hoặc gặp rắc rối, còn không cần làm phiền Thiên Chúa vì những chuyện thường ngày.
Là một tân tòng, nhưng tôi lại coi lòng tin là một chuyện nghiêm túc hơn. Làm người Kitô hữu tốt phải dấn thân nhiều hơn là chỉ dành cho Chúa một tiếng đồng hồ vào ngày Chúa nhật mà thôi. Tôi tham gia vào việc phục vụ Chúa ngày càng nhiều thêm. Tôi rất hạnh phúc được phục vụ người khác vì Chúa Giêsu. Tôi còn muốn A. Gene chia sẻ niềm vui của tôi biết bao, nhưng anh cho là tôi quá đạo đức. Đã nhiều năm, tôi cầu nguyện cho Gene và tôi được thân thiết với nhau trên đường thiêng liêng. Tôi thấy mình càng ngày càng được gần gũi với Chúa Giêsu hơn, trong khi Gene đang đi dần về phía khác.
Năm 1988, chúng tôi có một người khách mời đến nói chuyện cho nhóm “Mân Côi” của chúng tôi. Cô ấy nói với chúng tôi về chuyến đi Mễ Du của cô. Khi cô nói, tôi có cảm tưởng là tôi đang ở Mễ Du. Tôi muốn đi đến đó với Gene. Tôi xin anh đi với tôi, nhưng anh từ chối. Tôi bèn xin Đức Mẹ một phép lạ:
- Nếu đây là Thánh Ý Chúa, xin Đức Mẹ chuyển cầu để Gene đi và được ăn năn trở lại tại Mễ Du.
Gene có một chiếc thuyền đắt tiền, nó như là một vật sở hữu có giá trị nhất của anh. Anh tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc cho chiếc thuyền đó. Nhưng mỗi lần anh cho nó chạy đi, thì nó lại hỏng máy, cuối cùng, anh đâm ra chán nản. Anh còn đổ thừa tại tôi gây xui cho chiếc thuyền, vì tôi đã cản không muốn anh mua nó.
Bất ngờ, một ngày kia, anh quyết định là nếu bán được chiếc thuyền, chúng tôi sẽ dùng số tiền đó để cả hai cùng đi đến Mễ Du.
Trong vòng 2 tuần lễ, chiếc thuyền đã bán được! Chúng tôi sắp đặt chương trình để đi với Kay, Hubie Mule và vị linh hướng của chúng tôi, cha Ron Matthews. Họ hỏi xem Gene có thể chơi guitar cho đoàn trong chuyến đi không. Anh bằng lòng, và nhạc của anh đã làm tăng lòng sốt sắng của nhóm trong suốt chuyến đi. Việc đó cũng cho anh đóng góp một cái gì của riêng anh, thế là anh thích lắm.
Trong cuộc sống hôn nhân, Gene ít khi nói gì nhiều, nên tôi không thể biết anh nghĩ gì hoặc cảm thấy gì ở Mễ Du. Ngày kia, khi chúng tôi đi nghe cha Jozo, tôi bắt đầu tin là lời cầu xin một phép lạ đã có hiệu quả. Khi tôi xếp hàng để được cha Jozo đặt tay cầu nguyện trên tôi, Gene đến và đứng cạnh tôi, đầu cúi xuống. Từ đó, mỗi ngày phép lạ tỏ hiện thêm ra.
Chồng tôi đã khóc lóc nhiều. Tuy được biết anh đã được ơn Chúa đánh động sâu xa, nhưng tôi vẫn chưa nhận định ra được chiều sâu của việc trở lại của anh, mãi cho đến khi chúng tôi trở về nhà.
Một trong những món giải trí thích nhất của Gene, ngoài việc câu cá, là chơi trong băng nhạc đồng quê địa phương. Họ chơi trong các quán rượu hầu hết vào mỗi cuối tuần. Bây giờ, Chúa bắt đầu dùng đến tài âm nhạc của Gene cho Danh Ngài cả sáng. Gene vẫn còn đi câu, nhưng anh đã bỏ băng nhạc đó. Thay vào đấy, anh bắt đầu soạn bài hát đạo.
Hôm chúng tôi trên đường từ Mễ Du về, anh viết bài hát đầu tiên: “Marys calling” (Tiếng gọi của Đức Maria). Nội dung của bài hát là Đức Mẹ mời gọi chúng ta đọc “Kinh Mân Côi” cầu nguyện cho hòa bình, cho tình yêu. Bài hát quá sức hay, đến nỗi mắt tôi phải ứa lệ. Đó là bài hát thứ nhất mà Chúa đã soi sáng chồng tôi soạn ra.
Bài “Bring forth the light” (Xin hãy chiếu soi) được soạn ra để kính Đức Chúa Thánh Thần.
Sau đó, anh soạn bài “Marys tears” (Giọt lệ Mẹ Maria) tả Đức Mẹ khóc than như thế nào về những trẻ bị phá thai. Đi kèm với ca khúc ấy, anh sáng tác một băng cassette về phá thai, diễn tả người mẹ vô tâm đến chừng nào khi giết con mình. Anh mô tả thai nhi cảm nhận được gì lúc nó ở trong bụng mẹ khi bị trục xuất ra.
Gene nay năng lui tới nhà thờ ngày càng nhiều hơn. Anh rất vui khi được làm việc với giới trẻ tại giáo xứ chúng tôi và anh cũng thích chơi nhạc cho những buổi họp của nhóm cầu nguyện Canh tân Đặc sủng. Anh sửa chữa chiếc đàn organ (phong cầm) của nhà thờ, cuốn lại giây của hệ thống âm thanh, và làm tất cả những gì anh cho là cần. Cuối cùng, chúng tôi bắt đầu làm việc thiện chung với nhau và như thế, chúng tôi càng thêm thắm thiết với nhau hơn trong hôn nhân.
Ngày 24-6-1996, ngày lễ Thánh Gioan Tẩy giả và là ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra tại Mễ Du, Gene đi khám bệnh và được cho biết anh mang bệnh ung thư phổi. Tệ hơn nữa, nó còn lan qua thận. Ngày đó, chúng tôi đi chầu Giờ Thánh, để xin Chúa cứu giúp chúng tôi. Cả hai chúng tôi đều lo sợ.
Tối đến, bạn hữu chúng tôi ghé lại thăm. Trong số đó, có một anh bạn thuộc phái không chấp nhận các sự siêu nhiên, và Gene xin anh ấy cầu nguyện cho mình. Chúa nhật sau, người bạn này đi nhà thờ để cầu nguyện cho Gene. Từ đó, ơn trở lại bắt đầu.
Cô bạn tôi, Angietta, trong khi ngắm đàng Thánh giá chặng thứ 2, nghĩ ra là Gene cũng đang vác lấy thập giá của anh mà cùng đi với Chúa Giêsu đến đồi Can-vê. Cô tin Chúa đang nói với cô trong lòng: Ngài hứa sẽ đồng hành với anh ấy mọi bước đi suốt con đường. Một đêm kia, một mình chầu Chúa, tôi khóc nức nở. Bỗng nhiên, tôi cũng cảm nhận được lời hứa của Chúa là chăm sóc Gene và cũng chăm sóc cả tôi nữa. Sau đêm đó, tôi cảm thấy được bao bọc trong bình an của Chúa Kitô trong suốt thời gian Gene mang bệnh.
Khi nhóm cầu nguyện tụ họp quanh Gene để đặt tay cầu nguyện trên anh, anh được “nghỉ yên trong Thần Khí”. Chúa đưa anh đến gần những kẻ có Thần Khí, và một cách thầm lặng, anh dường như rút ra được điều tối hảo nhất nơi những anh em đang ở quanh anh. Trong những lần điều trị bằng hóa chất, các anh chị em ruột của anh suốt ngày ở bên anh. Đây là dịp thuận tiện để anh chia sẻ lòng tin được đổi mới của anh với họ.
Trong thời kỳ bệnh của Gene, tôi tin chắc là Chúa muốn anh ấy phó thác hoàn toàn theo ý Chúa. Điều này rất khó đối với Gene, bởi vì anh đã tuyệt vọng. Tám tuần trong thời gian bệnh, tôi thấy Gene đã vác thập giá được đến chặng thứ tám. Tôi nói với Gene là tôi nghĩ rằng anh đang đi đàng thánh giá và khi đã xong phần đau khổ đã định, Chúa sẽ làm phép lạ và chữa lành anh. Ngay cả lúc chỉ còn một hơi thở cuối cùng, Chúa cũng vẫn có thể giơ tay ra và chữa lành được. Ý tưởng này xem ra cũng mang lại bình an cho Gene.
Đến tuần thứ 11, anh phải vào bệnh viện. Tim tôi như tan nát, khi nghe bác sĩ nói Gene đã hết thuốc chữa và bảo đưa anh về nhà dọn mình chết. Ấy là tuần thứ 12, đúng với chặng XII Chúa chịu đóng đinh thập giá. Gene đã qua đời. Tôi rất lấy làm lạ, làm thế nào mà ngay trong những lúc bi thảm nhất của đời tôi như vậy, mà tôi còn có thể xử sự chu đáo mọi điều cần thiết như thế. Chúa đang ở với tôi, săn sóc tôi.
Việc canh thức và đám tang của Gene là một chứng tá cho đời anh. Anh đã đánh động lòng rất nhiều người qua lối sống bình lặng của anh, và nhiều người đến để đền đáp lại lòng tốt của anh.
Ngẫm nghĩ sự việc này, tôi nhận định Thiên Chúa đã sắp đặt mỗi biến cố một cách chu đáo, để đưa Gene về nơi an nghỉ cuối cùng. Nhưng biến cố này không đến được nếu chúng tôi không đi hành hương Mễ Du. Từ một Kitô hữu hờ hững, anh đã trở thành một người sống đạo sâu sắc với lòng nhiệt thành yêu mến Giáo Hội, gia đình và bạn bè anh. Đức Mẹ đã giữ một vai trò chủ chốt trong việc hoán cải anh.
Ngày 9-9-96, Chúa biết việc trở lại này đã hoàn thành. Ngài nói với Gene:
- Tốt, tôi tớ lương hảo và trung trực, hãy vào trong Vinh quang của Chúa ngươi.
Qua đau khổ, tôi đoan chắc Gene được hưởng phúc thiên đàng. Nỗi đau đớn của anh đã luyện sạch anh. Đức Mẹ đã biết những gì ở phía trước đến cho chúng tôi trong ngày mà chúng tôi trèo lên núi ở Mễ Du. Mẹ đã bắt đầu chuẩn bị Gene trước cho những biến cố đó. Đức Mẹ đã gọi anh đến một cuộc sống cầu nguyện thâm sâu hơn, qua những lời của bài hát “Marys calling” mà anh đã nhận được cảm hứng khi chúng tôi trên đường về lại nhà: “Mẹ Maria đang kêu gọi mỗi người chúng ta, Đức Maria đang kêu gọi cho hòa bình và tình yêu. Mỗi người hãy lần hạt Mân Côi mỗi ngày. Hãy cầu nguyện cho thế giới biết lắng nghe sứ điệp của Con của Mẹ”. Trong một nghĩa nào đó, sứ điệp này đã hoàn tất cuộc trở lại của Gene.
Chúa lại ban thêm cho tôi một món quà nữa. Khi làm việc trong phòng vi tính của Gene, sau khi anh đã qua đời, tôi phát hiện được một lá thư anh để trong ngăn kéo trước khi anh ngã bệnh nặng. Thật là một món quà tuyệt vời cho tôi. Tôi sẽ gìn giữ nó mãi như một kho tàng.
Đấy các bạn coi, ngày đó, Gene đã hoàn toàn qui phục Chúa như tôi đã cầu nguyện cho anh.
Kết cục là Gene đã được ơn phóng tầm mắt vượt qua trần thế để vào cõi vĩnh hằng. Tôi biết là vào lúc ấy, “phép lạ” mà tôi cầu xin đã được chấp nhận.
Gene viết: “Vừa khi bài ca tiễn biệt các bạn hát lên cho tôi, tôi đã đến nơi vinh quang với Chúa, Cha chúng ta, như Ngài đã hứa với chúng ta, nếu chúng ta sống đời sống công chính. Tôi sẽ nhìn xuống những người thân và bạn hữu yêu dấu của tôi đang khóc tôi. Thôi đừng khóc nữa, vì hành trình đời tôi đã kết thúc và đôi mắt tôi đã nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa. Chính tôi, tôi phải khóc cho các bạn. Tôi đã vượt qua được gian nan, thử thách của thế trần, nhưng còn các bạn, thử thách còn chờ ở phía trước. Tôi đã đi qua sa mạc hoang vu và tôi còn sống. Sa mạc của các bạn còn ở phía trước.
Bây giờ tôi đã hợp đoàn cùng ca đoàn các thiên thần hát Alleluia và ngợi khen Thiên Chúa. Tôi muốn nghe giọng ca của các bạn hát dâng lên Thiên Chúa và tôi muốn cùng hợp giọng với các bạn.
Niềm vui của tôi, tôi đã đạt, còn niềm vui của các bạn thì chưa. Như Chúa đã hứa, tôi bây giờ được ở bên Ngài với tất cả những ai đã đến trước tôi. Bây giờ là lúc tôi cầu cho các bạn lời cầu sẽ được nhận lời, như các bạn đã cầu nguyện cho tôi”.
Lm Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR
|