(168) 4. Khí giới thứ tư chống lại Satan là việc xưng tội
§ Lm Phêrô Hoàng Minh Tuấn, DCCT
Đức Mẹ xin ta đi xưng tội mỗi tháng một lần. Ngay từ những ngày đầu tiên của cuộc Hiện ra, Đức Mẹ đã nói đến việc xưng tội:
“Hãy hòa giải với Thiên Chúa và với nhau. Để được thế, cần phải tin, cầu nguyện, ăn chay và đi xưng tội.” (26-6-1981)
“Hãy cầu nguyện! Hãy cầu nguyện! Cần phải tin vững vàng, siêng năng đi xưng tội và rước lễ. Chỉ nhờ thế, người ta mới được cứu rỗi.” (10-2-1982)
“Việc xưng tội phải là hành động đầu tiên của việc ăn năn hối cải, và rồi các con hãy quyết định sống thánh thiện. Chớ gì việc ăn năn hối cải và quyết định sống thánh thiện phải được bắt đầu ngay hôm nay, đừng để đến ngày mai.” (25-11-1998)
Đức Mẹ Chúa Trời nhấn mạnh đến quyền lực của việc sám hối:
“Phàm người nào đã làm nhiều sự tội trong đời mình, họ vẫn có thể lên thẳng thiên đàng nếu họ xưng tội, đau đớn (ăn năn) vì những gì họ đã làm, và rước lễ vào lúc cuối đời họ.” (24-7-1982)
Giáo Hội Phương Tây đã lơ là việc xưng tội và không đếm xỉa đến tầm quan trọng của nó, nên Đức Mẹ nói về việc ấy:
“Việc đi xưng tội mỗi tháng một lần sẽ là thuốc chữa lành cho Giáo Hội Phương Tây. Người ta cần chuyển đến Phương Tây thông điệp này.” (dĩ nhiên, việc xưng tội hàng tháng cũng tốt cho cả thế giới). (6-8-1982)
Khách hành hương đến Mễ Du luôn cảm thấy xúc động, bởi thấy số người xếp hàng dài chờ xưng tội, và số các linh mục ngồi giải tội (có những ngày lễ lớn phải mời đến 150 linh mục tới giải tội suốt đêm). Nhiều linh mục thu lượm được những kinh nghiệm phi thường qua những lần giải tội ở Mễ Du. Đức Mẹ nói về việc giải tội trong một kỳ đại lễ nào đó như sau:
“Các linh mục ngồi tòa giải tội sẽ được niềm vui lớn trong ngày đó.” (8-1984)
Nhưng đi xưng tội không được trở thành một thói quen “làm người ta lờn quen với tội”. Cô Vicka nói với các nhóm người hành hương: “Đi xưng tội phải là làm mới lại con người các bạn. Đức Mẹ không muốn các bạn nghĩ rằng xưng tội là trút gánh tội cho mình được nhẹ nhàng, rồi lại cho phép các bạn tiếp tục sống như cũ. Không! Xưng tội là lời mời gọi biến đổi cuộc đời. Các bạn phải trở nên một con người mới.” Đức Mẹ cũng trình bày một ý nghĩ tương tự cho Jêlêna:
“Đừng đi xưng tội theo thói quen, để rồi vẫn sống như cũ sau đó. Cái đó không tốt. Xưng tội phải là một thúc đẩy cho đức tin mạnh thêm. Nó phải kích thích các con và đưa các con đến gần Chúa Giêsu hơn. Nếu xưng tội không có nghĩa lý gì cho các con, thì quả thật, các con khó mà ăn năn hối cải cho nên.” (7-11-1983)
Ngày 18-11-1995, Mễ Du đang dưới cơn mưa tầm tã... Bà Veronika, 72 tuổi, mới đến đây sau một cuộc hành trình mệt mỏi. Bà gặp cô Mary, một phụ nữ Mỹ còn trẻ, cũng mới đến. Hai người trở nên bạn thân thiết, trò chuyện với nhau đến khuya.
Bà Veronika nói:
- Gốc gác của tôi là ở đây. Tôi sinh trưởng tại Nam Tư, nay đã 72 năm. Cùng với chồng, chúng tôi chạy trốn bọn Phát xít, lúc đó, tôi có thai 9 tháng. Chúng tôi đi, đi mãi đến biên giới, băng rừng để khỏi bị lộ. Nhưng khi còn vài cây số giáp biên giới, chó săn bọn mật thám sủa. Vì quá mệt mỏi, tôi lẽo đẽo theo sau chồng tôi khá xa. Bọn mật thám đã giết chết chồng tôi, tôi chứng kiến khi anh ngã xuống. Rồi chó chồm về hướng tôi vừa sủa ầm lên, tôi cầu khấn Đức Bà che chở tôi. Tụi chó nằm xuống quanh tôi không sủa nữa. Tôi đi như thế qua gần một đêm, rồi tôi chuồn được qua biên giới mà không bị ai để ý. Chó ư? Chúng nó hiền như cừu! Sáng hôm sau, tôi sinh đứa con trai, rồi tôi sang tị nạn bên Úc.
Đây là lần đầu tiên tôi trở về Nam Tư. Tôi luôn yêu mến Đức Bà, nhưng đối với Thiên Chúa, tôi nghỉ chơi với Ngài, vì đời tôi quá đỗi gay go! Tôi chỉ còn 1/4 thận và cứ 2 ngày một, tôi phải làm một ca lọc thận để được sống còn. Khi tôi nghe Đức Bà hiện ra tại nơi đây, tôi quyết định đến để nhìn lại quê hương tôi và giao hòa với Thiên Chúa. Từ ngày chồng tôi qua đời, tôi không bao giờ đến tòa cáo giải. Tôi nói với Đức Bà: “Con về đất Mẹ, tại Mễ Du. Con sẽ đi đàng thánh giá trên núi Krizevac, để được ơn xưng tội nên.”
Nhưng bây giờ tôi chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa thôi. Vì cần lọc thận, tôi phải trở về Zagreb ngày mai bằng chuyến xe buýt 14 giờ. Từ Melbourne, để đi đến Mễ Du, tôi phải tốn mất 22 ngày đường. Phải ngừng ở Hồng Kông để làm một ca lọc thận, rồi Bombay, Tel Avil... Tôi không có được 24 tiếng để ở lại Mễ Du. Cộng thêm cơn mưa như xối nước kia nữa chứ... Làm sao chiều này tôi lên núi Krizevac được?
Mary đáp:
- Ngày mai, trời sẽ đẹp lại. Đã có thiện chí đi đến từ xa, vượt qua một hành trình như vậy chỉ để xin ơn xưng tội nên, thì nhất định Đức Mẹ sẽ ngưng cơn mưa để bà lên núi Krizevac như đã ước nguyện!
- Cô tin như vậy hả?
- Chắc chắn như vậy! Vả lại, tôi muốn cùng đi với bà. Tôi có thể đánh thức bà lúc 5 giờ sáng, chúng ta sẽ đi trước 6 giờ, trời sẽ quang đãng, rồi bà sẽ thấy...
5 giờ sáng, trời vẫn mưa... Mary đánh thức bà dậy, nhưng bà vẫn như không muốn nghe:
- Nếu đến 6 giờ mà trời tạnh mưa thì tôi dậy, còn không thì thôi.
Cứ độ nửa giờ, cô Mary lại ra xem đã tạnh chưa. Mưa càng to hơn. Đến 8 giờ sáng, trời vẫn mưa, nhưng Mary khẳng định:
- Lần này, ta cứ đi. Nếu không sẽ trễ chuyến xe buýt. Trời mưa đấy, nhưng khi chúng ta vừa ra khỏi nhà, mặt trời sẽ ló dạng.
Bà Veronika ngồi dậy, nửa tin nửa ngờ. Bà ăn điểm tâm trong khi ngoài trời vẫn mưa xối xả. Việc dự định xem ra bất đạt. Mary nói:
- Hãy giục lòng tin! Để cây dù lại đây.
Cô mở cửa đi ra. Bấy giờ bà Veronika không thể tin nổi vào điều bà thấy: khi bà vừa đặt chân ra ngoài, thì mây liền tan, mặt trời ló dạng. Hai phụ nữ tiến về phía núi, nhưng Veronika than:
- 72 tuổi với 1/4 quả thận, băng đường dài 22 ngày. Thật là cực nhọc!
Cô Mary giúp bà ta tiến bước. Bỗng nhiên, giữa chặng đường thánh giá 1 và 2, cô Mary nom thấy trước mặt cô một Thập giá chiếu sáng. Ngây ngất, cô quì sụp xuống trước sự hiện diện của Chúa, lòng vui sướng khôn tả. Quay đầu lại, cô thấy Veronika cũng ngã sấp mặt xuống, đang khóc nức nở. 10 phút qua, 2 phụ nữ trở lại bình thường, cây Thánh giá sáng chói đã biến đi, nhưng - thật là tuyệt diệu - họ không còn cảm thấy khó khăn của cuộc leo đồi, của đá lởm chởm, không cảm thấy nhọc mệt nữa. Trẻ cũng như già, hai người như con nai nhảy nhót. Họ đến đỉnh núi trong một thời gian kỷ lục. Rồi trước cây thập giá bằng ximăng dân làng đã xây trên đó, họ dâng những lời cầu nguyện hết sức sốt sắng. Khi xuống núi, Mary nói với Veronika:
- Đấy nhé! Bà đã nhận được ơn xưng tội nên. Vậy trước khi lên xe buýt, ta nên tìm đến một linh mục gần nhà thờ.
Veronika đáp:
- Không, tôi không muốn xưng tội. Tôi trở về nhà ngay bây giờ.
Mary hết biết luôn. Càng đề nghị bà ấy đi đến tòa cáo giải, thì bà càng khép kín lại. Thế là xe buýt chuyển bánh, chở theo một Veronika tức giận. Cô Mary đến nhà thờ, đau buồn tê tái cả hồn. Cô nài xin Thiên Chúa đừng bỏ người bạn già của cô. Thuyền đã tới bến rồi mà còn bị đắm! Thật khủng khiếp! Sau khi đã được thấy dấu lạ, được ơn đến như thế, mà lại ra đi trong thế kẹt!
Nhiều tuần lễ qua đi, bỗng một cú điện thoại của Veronika từ Úc gọi qua:
- Cô Mary ôi! Tôi kể cho cô nghe. Cô đã cầu nguyện nhiều cho tôi, nên tôi muốn cho cô một tin an ủi. Cô nhớ không? Khi từ giã Mễ Du, tôi không muốn xưng tội. Ba tuần lễ trên đường, tôi vẫn giữ nguyên quyết định từ chối ấy. Có cái gì đã kẹt trong tôi. Nhưng khi đến thủ đô Úc, vừa bước xuống máy bay, thình lình tôi cảm thấy hối hận đớn đau. Tội lỗi trong đời tôi từ từ xuất hiện rõ rệt từng cái một, khiến tôi không đứng nổi. Vừa rời phi trường, tôi đến một nhà thờ gần đó, tìm một linh mục, và tôi đã xưng thú tội lỗi. Cứ tưởng tượng xem: 40 năm với bao tội lỗi ghê gớm...
Vậy ra Mễ Du đâu cần phải vội vã. Từ tốn mà lại được chuyện!
Chưa hết... Sau khi hòa giải, Chúa Giêsu đã nói trong lòng tôi và dạy cho tôi biết đọc kinh Lạy Cha với tất cả tấm lòng. Người xin tôi đem cả quãng đời còn lại thường xuyên đọc kinh Lạy Cha. Đấy là ơn tôi được, đã ba tuần nay, kinh Lạy Cha vẫn đang sống trong tôi.
- Đọc kinh Lạy Cha liên tục hả?
- Ấy, còn nữa. Cô còn nhớ chứ, sau khi chồng tôi chết, tôi phải cật lực bằng đủ mọi cách để ra khỏi cảnh khổ. Vì cứ sợ thiếu thốn, nên tôi cứ muốn tích trữ mọi của cải vật chất mà tôi kiếm được. Tôi đâm hà tiện ghê sợ, ngay con trai tôi cũng chẳng được tôi cho gì! Đồng tiền là lẽ sống của tôi. Tôi không có chút gì bác ái cả. Sau lần xưng tội này, Chúa Giêsu đã thay đổi tôi: tôi được ơn từ bỏ của cải. Tôi thanh toán hết: một phần cho con tôi, một phần cho người nghèo. Tôi bán ngôi nhà của tôi, và tôi đã xin một căn phòng nhỏ trong một tu viện để ở đó tôi sống trong cầu nguyện cho đến cuối đời. Hiện tôi không còn gì hết, sạch túi, mấy đôla còn lại đủ dùng để gọi điện thoại về Mễ Du, nói cho cô biết sự vui mừng của tôi và cám ơn cô...
Lm Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR
|