CHƯƠNG (53) – ÐIỆU BỘ CỦA ÐỨC BÀ LÚC HIỆN RA
Cha Y : Cho cha biết đi, Vicka, khi Ðức Bà hiện đến, đôi mắt của Người nhìn về đâu ?
V : Trước hết, Ðức Bà nhìn về phía chúng con.
Cha Y : Chúng con là ai vậy ?
V : Thưa, chúng con là các thị nhân. Sau đó, Người nhìn những đồ vật để trên bàn và Người chúc lành.
Cha Y : Và sau đó ?
V : Sau đó, Người nhìn lại chúng con và bắt đầu ngỏ lời.
Cha Y : Người nhìn từng người các con cùng lúc à ?
V : Dĩ nhiên.
Cha Y : Làm sao như thế được? Ðây nhé, cha nhìn con, và như vậy cha không thể nào nhìn ai khác cùng lúc được.
V : Cha ơi, cha đâu phải là Ðức Trinh Nữ.
Cha Y : Và nếu có ai trong các con đặt câu hỏi ?
V : Thì lúc ấy, Người nhìn người đặt câu hỏi đó.
Cha Y : Và nếu tất cả các con đặt câu hỏi cùng một lượt thì sao ?
V : Thì Người nhìn tất cả chúng con.
Cha Y : Cha không hiểu.
V : Thế cha muốn con làm gì đây ! Ngay chính con, con cũng chẳng hiểu. Nhưng mà nó là như thế đấy. Chấm hết.
Cha Y : Có bao giờ Ðức Bà nhìn người khác không?
V : Người thường nhìn những người ở quanh chúng con.
Cha Y : Thỉnh thoảng Ðức Bà nhìn bên nọ bên kia chứ ?
V : Vâng, có.
Cha Y : Người có nhìn lên, hướng về trời không?
V : Con không nhớ rõ.
Cha Y : Ðức Bà nhìn qua một bên lúc nào ?
V : Khi muốn dùng ánh mắt nhìn để chỉ cho chúng con cái gì đó. Có một lần, Người chỉ cho chúng con thấy một người do thám; lần khác, một nhân vật vô thần tên tuổi. Nếu Người chúc lành cho ai, Người cũng nhìn người ấy ! Ví dụ như khi những khách hành hương xứ Varazdin đến (Mễ Du). Hoặc là vị linh mục trước kia có nguyện mười kinh Kính Mừng cho các thị nhân chúng con. Ðức Bà quay sang phía ngài, và nói với chúng con: “Các con nghe đấy...” Nhưng ai hơi đâu mà kể cho hết được.
Cha Y : Như vậy, khi nào Ðức Bà nói với ai hoặc nói về ai, thì Người nhìn vào người ấy.
V : Chính xác.
Cha Y : Thế lúc Ðức Bà biến đi thì sao ?
V : Thì Người nhìn chúng con.
Cha Y : Nhìn sao được vì Ðức Bà quay lưng đi.
V : Người không quay lưng với chúng con. Lúc đến cũng như lúc đi, Ðức Bà nhìn chúng con.
Cha Y : Và đôi cánh tay của Người để như thế nào khi hiện đến ?
V : Người luôn mở rộng cánh tay, như vầy nè...
Cha Y : Như vậy là hai cánh tay Người mở rộng ra, với hai lòng bàn tay ngửa lên trên phải không?
V : Vâng, thường là thế, nhưng lòng bàn tay không hoàn toàn ngửa lên trên.
Cha Y : Thế còn lúc Ðức Bà nguyện kinh với các con ?
V : Hai cánh tay Người mở ra.
Cha Y : Thế còn khi các con đọc kinh Lạy Cha ?
V : Lúc ấy, hai lòng bàn tay Người ngửa lên trên.
Cha Y : Và lúc Ðức Bà hát với các con ?
V : Hai cánh tay vẫn giữ nguyên vị trí ấy.
Cha Y : Có khi nào Ðức Bà làm cử chỉ bằng bàn tay không?
V : Không bao giờ, không bao giờ.
Cha Y : Khi khiển trách người nào, Ðức Bà có cử chỉ nào ?
V : Như thường.(56)
Cha Y : Thế lúc Người biến đi, thì thế nào ?
V : Cũng giống như lúc đến.
Cha Y : Con có nói với cha là đôi cánh tay Ðức Bà giăng ra một cách khác, khi Người cầm cây Thánh giá.
V : Vâng, hai cánh tay Người giăng thẳng ra đằng trước, hai lòng bàn tay ngửa lên trên và cây Thánh giá đặt ở trên hai cánh tay.(57)
Cha Y : Ngón tay của Ðức Bà có móng không?
V : Có chứ.
Cha Y : Móng tay màu gì ?
V : Màu thường thôi, nhưng thanh hơn và sạch hơn móng tay của chúng ta nhiều.
Cha Y : Móng tay Ðức Bà có sơn bóng không?
V : Cha đừng nói đùa !
Cha Y : Có khi nào Người chắp hai tay lại không?
V : Ðôi lần khi chúng con đọc kinh Sáng Danh.
Cha Y : Ðức Bà đứng trên cái gì ?
V : Dưới chân Người không có cái gì (nâng đỡ) cả. Người lướt đi trên không và đôi chân Người thường là ngang tầm với đầu chúng con khi chúng con quỳ gối.
Cha Y : Luôn luôn là như vậy hả ?
V : Vâng, trừ ra khi Người hiện đến với chúng con từ xa.
--------------------------------------------
(56) Hai cánh tay Người luôn mở rộng.
(57) Xem lại chương 37.
|