CHƯƠNG 3: CHÚA GIÊSU ĐANG SỐNG
Trong suốt tháng 6
năm 1981, sau một vòng đi giảng tại
Algérie và Maroc, Chúa cho tôi được
diễm phúc đến viếng Thánh Địa.
Sau ngày đến
Thánh Địa, tôi dậy trước khi
mặt trời mọc và đi vào các
con đường nhỏ cổ kính, khúc
khuỷu trong thành phố Yêrusalem và dọc theo con
đường mà Maria Mađalêna đã đi
đến mồ ngày Chúa sống lại.
Khi đến Mồ
Thánh, tôi gặp một người bạn
Mêhicô, trước kia đã cưới một
cô vợ đẹp người Porto Rico tại Cana. Bước vào
trong mồ, anh ta chỉ cho tôi thấy một bảng ghi
bằng tiếng Hy Lạp:
“Sao các người
đi tìm người sống trong kẻ chết?
Ngài không có ở đây, Ngài đã
sống lại”
(Lc 24,6).
Nay, tôi cũng chưa
hết sững sờ về buổi sáng hôm
đó, đã như dội lại trong tôi quang
cảnh ngày Chúa Phục Sinh. Từ bóng tối
của chiếc mồ trống, đã rọi ra
một ánh sáng chiếu soi mọi người
để khởi đầu một tạo thành
mới.
Nếu Chúa Yêsu không
có trong mồ trống tại Yêrusalem, thì
chắc chắn Ngài đang ở trong
khắp thế gian. Chỉ có một chỗ độc
nhất trên mặt đất này mà Chúa
Yêsu không có mặt, là cái mồ đẽo
đục trong đá do người bạn của
Chúa – ông Giuse Arimathia – đã cho Chúa
mượn xưa kia.
Chúa Yêsu không sai
các môn đệ đi dạy lý thuyết hay
những tư tưởng trừu
tượng, nhưng sai đi để làm
chứng về những gì đã thấy
và đã nghe. Khốn nỗi, hình như
chúng ta chỉ lo lắng dạy đạo lý
hơn là thông truyền sự sống. Để
được lớn lên trong sự sống
Thiên Chúa, trước hết, ta phải
được sinh ra bởi quyền lực
Thánh Thần.
Một sứ giả
Tin Mừng, trước tiên, phải là một
chứng nhân có một kinh nghiệm cá nhân
về sự chết và Phục sinh của Chúa
Yêsu Kitô, và là người truyền đạt
cho kẻ khác, không chỉ một đạo lý,
mà về một Đấng-Vẫn-Sống và
đang ban sự sống dồi dào. Sau đó –
chỉ sau đó và luôn luôn sau đó –
người ta mới dạy giáo lý và
luân lý. Đôi khi, chúng ta làm cho người
ta tuân giữ các điều răn Thiên Chúa,
trước khi họ biết được
vị Thiên Chúa của các điều răn.
Chúng ta không nên quên rằng: mười
điều răn được Thiên Chúa trao cho
Môsê, sau khi đã tỏ mình ra trên núi Sinai.
Không ai có thể
trở thành sứ giả đích
thực của Tin Mừng, nếu người
đó không có kinh nghiệm đời sống
mới mà Chúa Yêsu ban cho. Khi chúng ta làm
chứng được những gì Chúa
Yêsu đã làm từ sau khi sống lại,
thì lúc ấy mọi sự đều
được đổi khác. Lời rao
giảng sẽ được kèm theo dấu
lạ điềm thiêng như Chúa đã
hứa.
Tại Janico, một
ngày kia, cha xứ mời chúng tôi giảng
cấm phòng. Ngài báo trước là
giáo dân ở đây rất cứng lòng
và không thích đi nhà thờ. Buổi
chiều đầu tiên chúng tôi đến,
người tham dự buổi tĩnh tâm rất
ít. Nhưng thấy có một người
đàn ông nằm xoải trên nền nhà, trông
như một búp bê bằng vải không thể
đứng trên hai chân. Ông ta bị bại hai chân và
tay, không thể ăn uống hoặc đi
đứng một mình được. Thật
là thảm thương! Tôi nghĩ trong lòng:
“Tại sao người ta đưa ông này
đến đây làm gì vậy?”. Khi nhìn
lại hình dáng thảm hại của ông ta, tôi
bèn nói:
- Chúng ta hãy
cầu nguyện cho người đàn ông này,
để chốc nữa, anh em sẽ dẫn
đưa ông ta đi cùng với anh em!
Lúc khởi
sự cầu nguyện, ông ta bắt đầu
toát mồ hôi và run rẩy. Thấy vậy, tôi
hồi tưởng lại, chính tôi đã
cảm thấy nóng ran khi Chúa chữa tôi. Tôi
liền nói với ông ta:
- Hãy chỗi
dậy! Chúa đang chữa ông đấy!
Ngay lúc ấy, tôi
cầm tay ông ta và truyền ông ta bước đi.
Ông ta đi tới Nhà Tạm, ở đó,
ông ta làm chứng là đã không đi
đứng được từ 19 năm nay.
Tôi nghĩ bụng: “May
mà tôi không biết là ông ta bị bại liệt
tứ chi đã từ lâu…; nếu biết,
tôi đã không dám bảo ông ta đứng
dậy”. Trưa hôm đó, sau khi tất cả mọi
người đều ra khỏi nhà thờ,
chúng tôi băng qua đường đến
ngồi ở bậc tam cấp. Vừa ngồi
xuống, ông ấy nói với chúng tôi:
- Chúa cũng
đã chữa lành cả đôi tay tôi
nữa. Tôi có thể ngó ngoáy
được…
Việc ông bại xuội
này được loan ra. Ngày hôm sau, phòng
họp chúng tôi đầy ắp người.
Nhiều người đứng đằng sau
cửa sổ và cửa nhà thờ.
Ngày nào chúng tôi
đón nhận quyền năng của Chúa qua
các lời chứng, ngày ấy, lời
rao giảng của chúng tôi đổi khác
hẳn.
Trước kia, tôi
dọn bài giảng rất kỹ lưỡng, tôi
học hỏi các nhà văn cổ điển
và đọc sách thần học cận
đại. Các điều tôi đọc trong sách
rất hay và sâu sắc, đến nỗi tôi không
muốn để mất những gì tôi thu
lượm được, tôi muốn đem
hết các điều ấy ra giảng. Cho nên tôi biên
tất cả trên giấy rồi đọc lại,
để có thể hưởng nguồn phong
phú đó mà tôi muốn truyền đạt
lại.
Ngay trong vấn đề
này, Chúa cũng đã thay đổi tôi.
Một Chúa Nhật nọ, tôi đang ngồi
trước bài giảng dọn kỹ
lưỡng bằng những ý
tưởng thu lượm ấy, thì Chúa
nói với tôi:
- Nếu con là
người đã từng học bao năm,
từng đọc bao nhiêu sách, mà chưa
đủ khả năng ghi những điều ấy
vào trí nhớ, để chốc nữa
đem ra lập lại cho người khác nghe;
thì làm sao con lại muốn cho những
người đơn sơ, chất phác này
chưa hề được tập luyện như
con, lại có thể ghi nhớ những
điều đã nghe để thực hành
trong cuộc sống?
Từ đó, tôi
thay đổi cách giảng dạy, tôi chỉ còn
làm chứng cho quyền phép của Thiên
Chúa và những gì Người đang
làm, và tôi kể lại những việc
của Tình yêu Thiên Chúa.
Tôi còn học
được thêm một điều quan trọng:
điều cần thiết là không phải nói hay
về Chúa Yêsu, nhưng là để mặc
Ngài, để mặc cho tất cả quyền
năng của Thánh Thần. Tại sao phải nói
về Chúa Yêsu một cách tuyệt vời,
đang khi chúng ta chỉ cần để cho
Người hành động qua chúng ta?
Nước Thiên Chúa là quyền năng và
sức mạnh đến từ trời cao
và tỏ hiện giữa chúng ta.
Một lần nữa,
tôi giảng lâu lắm, hơn một tiếng
đồng hồ. Giảng xong, một linh mục
đến gần tôi, vẻ bực tức, chỉ
vào đồng hồ và nói với tôi:
- Tôi không ưa bài
giảng của cha; vì trong 67 phút, cha toàn
nói đến phép lạ và phép lạ,
mà không ám chỉ đến phép lạ nào
trong Phúc Âm cả.
Một người
khác nghe vậy liền đáp:
- Tại sao phải
nói về những phép lạ đã xảy
ra cách nay 2.000 năm, nếu người ta có
thể nói về những phép lạ mà
Chúa Yêsu mới làm tuần
trước?
Phần tôi, với
những năm tháng còn lại của
đời tôi, tôi không đủ để kể
lại những gì Chúa đã làm trong 10
năm qua; những việc lạ lùng Chúa
đã làm thật vô số kể. Cho nên, khi tôi
chỉ có một tiếng đồng hồ, tôi
nguyện kể lại những phúc lành
mới được Chúa ban cho.
Tôi đã giảng
dạy khắp năm châu và chỉ nói có
bấy nhiêu sự, vì tôi không còn gì
để nói ngoài lòng thương xót
của Thiên Chúa. Tôi là chứng nhân Tình Yêu
Thiên Chúa đối với loài
người, đối với mọi
người, mọi nước và mọi ngôn
ngữ. Quyền năng của Thánh Thần
đã biến tôi thành chứng nhân của
Đức-Kitô-đang-sống.
Nhiều khi, không còn
thời giờ để dùng bữa
nữa. Sau những ngày giờ đi
đường xa, tuy rất mệt nhọc, chúng
tôi đã phải bắt đầu làm việc
ngay, nhưng Chúa tỏ rỏ sức mạnh
của Ngài qua sự yếu đuối của
chúng tôi.
Trong kỳ tĩnh tâm
tại Lộ Đức, nước Pháp,
có những linh mục từ các
nước châu Âu đến. Thật rất mệt
nhọc, vì sau khi giảng, lại phải ngồi
giải tội, rồi lại giảng hoặc
cử hành Thánh Lễ.
Sau một bài giảng
nọ, có một vài linh mục đến xưng
tội. Vị thứ nhất là một linh mục
Hòa Lan. Ông ta nói tiếng Pháp không rành, sau
khi xưng tội, ông hỏi tôi:
- Cha có thể
cầu nguyện cho tôi lành bệnh “câm” tai trái
không?
Tôi suýt phì
cười, vì câu nói ngộ nghĩnh của
ông: “Tôi bị câm tai trái”… Tôi thưa với
Chúa:
- Lạy Chúa,
nếu Chúa chữa người này, thì
sẽ là một việc chữa bệnh
lớn nhất thế giới.
Còn tôi, tôi chỉ
đợi ông ấy đi ra, để tôi có
thể cười thỏa thích; nhưng liền
sau đó, một linh mục khác vào và
thấy tôi đang cười, vì tôi không quen
nổi câu nói “câm tai trái”, và tôi đã
cười suốt thời gian ngồi giải
tội. Do đó, các linh mục nói với
nhau về tôi:
- Cha Emiliano thật
là vui sướng! Tuy phải làm nhiều
việc, nhưng cha luôn vui vẻ.
Những linh mục
khác nói:
- Thật là dễ
chịu khi xưng tội với một linh mục luôn
tiếp đón chúng ta bằng nụ
cười.
Chúa dùng linh mục
“câm tai trái” này, để tỏ cho tôi thấy
Ngài là Chúa của niềm vui, và Ngài
rất hài lòng tiếp đón chúng ta
đến gần Ngài. Thiên Chúa chúng ta rất
hóm hỉnh, điều đó không thể nghi
ngờ.
Ngày kia, lúc tôi
giảng cho một đám đông dân chúng trong
một sân vận động, một người
đến hỏi tôi:
- Cha không sợ,
không nhút nhát khi giảng trước một
cử tọa lớn như vậy ư?
- Khi chắc
chắn là mình truyền đạt một Tin
Mừng, thì người ta có thể leo lên
mái nhà, làm chứng trong các trại giam
và giảng trong các sân vận động. Tôi, tôi
đã làm chứng về những gì tôi
đã thấy. Nếu không, nói thật với
anh em là tôi rất ngán nói.
Khi chúng ta không có
kinh nghiệm về Chúa Kitô đang sống, thì
chúng ta phải nói về muôn ngàn chuyện,
trừ ra nói về Chúa Yêsu, cái đó
mới là đáng ngán.
Ngày nay, chúng ta không
cần một Phúc Âm mới, nhưng cần
phải rao giảng Phúc Âm một cách mới,
một lối giảng mới, là tuyên xưng
cách mạnh mẽ và hữu hiệu
rằng: Chúa Kitô đang sống. Không phải
là lặp đi lặp lại những
lý thuyết mà chúng ta đã nghe và
đã đọc, nhưng là đưa ra
những chứng từ của chínnh
chúng ta. Ngày nay, chúng ta phải rao giảng Tin
Mừng bằng quyền uy của Thánh
Thần, với những dấu lạ và
điềm thiêng – vốn là những việc
bình thường trong cuộc rao giảng Tin
Mừng.
Tại Đại hội
Montréal tháng 6 năm 1977, có hơn 65.000
người đến đầy sân vận
động Điền kinh dự lễ bế mạc.
Hiện diện có Đức Hồng Y Roy, 6
giám mục và 920 linh mục, có cả ông
Thị Trưởng thành phố, và gần
bàn thờ, có hơn 100 bệnh nhân ngồi trên
xe lăn của họ.
Chúng tôi
hướng dẫn việc cầu nguyện cho
bệnh nhân. Tất cả sân vận động vang
tiếng ca ngợi Chúa. Bỗng nhiên, một
phụ nữ, tên Rose Aimée, mắc chứng
ngạch kết đã 11 năm, đứng dậy
và bắt đầu bước đi
trước mặt mọi người. Chỗ
khác, một người, rồi một
người nữa tiếp theo, mười hai
người liệt bật đứng dậy, ra
khỏi xe lăn và bắt đầu
bước đi.
Dân chúng vỗ tay
và khóc vì quá cảm động. Ông Thị
Trưởng cũng khóc như con nít. Khi
Chúa tỏ mình ra, không còn có ai là lớn
cả, tất cả đều là nhỏ bé. Ông ta
khóc vì sung sướng và cảm
động.
Hôm sau, tờ báo
chính của thành phố đăng tin:
“Điều lạ lùng, kinh ngạc tại sân Vận
Động Điền kinh: người què đi được”.
Tờ báo Montréal ghi: “Những
người nằm bệnh trên giường
chỗi dậy và đi”. Việc bệnh nhân
được chữa lành là một
điều không đáng ngạc nhiên, điều
đáng ngạc nhiên là nếu họ không
được chữa lành. Thật vậy, nếu
Chúa Yêsu không giữ lời hứa, ấy
mới là kỳ!
Ngày hôm sau,
người ta phỏng vấn tôi trên truyền
hình:
- Ông có nghĩ
rằng các việc chữa lành này
là do động lực của đám đông,
do cảm xúc, do tiếng hoan hô, vỗ tay của dân chúng
không?
Tôi đáp:
- Nếu như vậy,
thì xin ông hãy cắt nghĩa cho tôi, tại sao
ở bất cứ trận đấu banh nào,
lại không hề thấy một người
què nào đứng dậy đi
được, hay một người bệnh ung
thư nào được lành, khi cả
đấu trường bùng vỡ lên
giữa những tiếng vỗ tay, hoan hô cuồng
nhiệt chúc mừng cuộc thắng trận
đấu?
Lời giải
đáp duy nhất, đó là Đức
Yêsu đã sống lại, và Ngài đang
sống giữa chúng ta. Đừng tìm câu
giải thích nào khác, vì luôn luôn ta sẽ sai
lạc.
Chương trình
của Chúa lắm lúc làm tôi bật
cười. Ngài rất hóm hỉnh,
chẳng hạn khi Ngài đặt một linh
mục nhà quê đứng giảng Tin
Mừng, trước mặt các nhà
thần học từ nhiều nước tụ
đến. Tôi chẳng dạy họ cái gì
cả. Tôi chỉ có việc làm chứng cho
họ về tình thướng xót của
Trái Tim Chúa Yêsu.
Năm 1981, tôi giảng
cấm phòng cùng với cha Albert de Monléon cho
320 linh mục tại Lisieux, nước Pháp; trong
số này, có nhiều linh mục rất thông
thái, một số rất nặng óc bình
luận, và cũng không thiếu những vị
có tính hoài nghi.
Sau một bài giảng
thuyết tuyệt diệu của cha Monléon, thì
đến phiên tôi giảng. Tôi cảm thấy nhỏ
bé trước mặt những
người quá thông thái, với đầy
đủ các văn bằng và chức
tước. Tôi cảm thấy nghèo nàn
trước mặt Đức Hồng Y Suenens
và các Giám Mục khác. Bởi
đó, tôi cầu nguyện với Chúa
rằng:
- Lạy Chúa,
một linh mục từ một đảo nhỏ
xíu như con đến đây, thì làm
được cái gì trước
mặt những người thông thái
này? Và có thể các vị ấy cũng
chẳng biết hòn đảo nhỏ của con
nằm ở đâu. Xin đừng để
con một mình, Chúa ơi!
May sao, đêm đầu
tiên, Chúa chữa lành một linh mục bị
đau viên tĩnh mạch; nhờ đó, mọi
cuộc tranh luận đều chấm dứt.
Sáng hôm sau, trong phòng cơm, ông ta vén ống
quần lên và chỉ cho thấy hai chân
được khỏi hoàn toàn. Bằng
chứng này đã biểu thị vinh quang Thiên
Chúa, hơn cả những bài diễn
thuyết nghèo nàn của tôi.
Tai Lyon, sau một bài
giảng của tôi cho hàng giáo sĩ,
Đức Hồng Y Renard rất đỗi ngạc
nhiên bởi những việc chữa lành
kỳ diệu của Chúa. Ngài đứng
dậy nói:
- “Đối
với chúng ta, chấp nhận hành động
mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần là
điều rất khó, bởi vì chúng ta duy
lý. Nhiều hay ít gì, tất cả chúng ta
là con cháu Descartes, và ngay cả Voltaire
nữa. Bởi đó, chúng ta khó
nhận ra được hoạt động của
Thần Khí. Ngài muốn thổi đâu thì
thổi như ý Ngài muốn, mà không bị
giới hạn vào khuôn phép lý luận
của lý trí chúng ta. Chúng ta đặt
đường rầy buộc Ngài phải theo,
nhưng Ngài bay vượt khỏi đó;
chúng ta đưa cho Ngài ống dẫn hơi
để Ngài có thể thổi qua đó,
nhưng Ngài lại thổi bên cạnh. Thần Khí
không theo chương trình mục vụ của
chúng ta.
“Chắc chắn,
chúng ta cần có một phương pháp
mục vụ, nhưng căn bản của mọi
việc huấn luyện đức tin chính là
nhận ra điều này: không phải chúng ta
điều khiển hành động chúng ta.
Mọi phương pháp cần phải mềm dẻo
đủ để Thần Khí có thể
sử dụng, và hơn nữa, có thể
biến đổi nó.
“Ân tứ của
Thánh Thần thì khác nhau, và hiện tại
có thể vì óc duy lý hoặc thiếu
lòng tin, chúng ta tưởng các ân tứ
đó là chuyện đời xưa.
“Người
thời nay tìm kiếm những người
có Thần Khí, những tiên tri có Thánh
Thần soi sáng; nhưng nếu họ không tìm ra,
họ sẽ chạy theo những kẻ thần
khải giả hiệu; đó là điều
rất nguy hiểm.
“Giáo Hội là
một lễ Hiện xuống, chứ không phải
là một sự duy lý trường
kỳ.”
Những câu cuối
cùng này của Đức Hồng Y nhắc
tôi nhớ lại một giai thoại không có trong
Phúc Âm. Một ngày kia, Chúa Yêsu đang ở
với các môn đồ, Ngài hỏi họ
rằng:
- Còn các
con, các con nói ta là ai?
Simon Phêrô đứng
dậy đáp:
- Thầy là
sự hiển linh cánh chung, nuôi dưỡng trên
bình diện hữu thể, cho xu hướng
tính của những mối quan hệ tiềm
thức và liên vị của chúng con.
Chúa Yêsu mở to
mắt ra và hết sức ngạc nhiên:
- Sao, con nói gì
vậy?
Và Phêrô không thể
lặp lại được, vì ông đã
quên ngay cái định nghĩa mà ông vừa
nói ra. Vì điều đó không phải là
cái ông có trong tim, nhưng chỉ có trong óc
mà thôi.
Người
đời chán nghe các lý thuyết và
những thi phú văn hoa. Họ đói khát
những lời sự sống và
hữu hiệu. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI
nói:
“Thế giới này
đã quá mệt mỏi vì phải nghe
nhiều thầy, họ chỉ bị lôi cuốn
bởi các chứng nhân”. Những
chứng nhân là người có kinh nghiệm
về đời sống mới do Chúa Yêsu ban
cho.
Phúc Âm Thánh Luca
kể rằng: chiều Chúa Nhật Phục Sinh,
hai môn đồ Chúa từ Yêrusalem trở
về Emmau. Họ buồn và chán nản, bởi
Thầy họ đã chết, thì tất cả hy
vọng khôi phục nước Israel của họ
đều tan thành mây khói.
Chúa Yêsu đích thân
đến với họ trên đường đi,
và một trong hai ông, tên Clêopha, bắt đầu
giảng một khóa Kitô cho Chúa Yêsu, mà ông ta
không nhận ra được. Ông ta nhắc lại
rành mạch từng việc làm, từng
phép lạ, và từng lời Ngài
nói. Ông ta kể lại cái chết thê thảm
của Chúa trên thập giá mà toàn dân
đã chứng kiến; nhưng kể đến
chỗ Chúa sống lại, thì ông ta không thể
nói kinh nghiệm của mình ra, chỉ biết
lặp lại những gì các phụ
nữ nói rằng: “Thiên thần đã
nói…”
Cũng vậy, trong
Giáo Hội, một số giảng viên chỉ
lặp lại những gì các nhà
thần học đã viết, hoặc những
gì mà họ đã học được
qua các trường lớp, nhưng chính
họ lại chẳng có kinh nghiệm cá nhân
nào về sự Phục Sinh của Chúa Yêsu
Kitô.
Khi chính cá nhân ta
chưa đích thân gặp Chúa Yêsu Kitô Phục
Sinh, ta chỉ lặp lại những lý
thuyết hoặc lời dạy của kẻ khác.
Chúng ta được gọi làm chứng
về những gì chúng ta giảng dạy,
nhưng để trở thành một chứng
nhân đích thực, cần phải có kinh
nghiệm bản thân và những điều
mình tuyên xưng, và sống kinh nghiệm ấy
trong con người của mình.
Ngày kia,
người ta đưa tôi tham quan hệ thống
nhà máy thủy điện đồ sộ tại
Itaipu ở Paraguay, thật là choán ngợp!
Người và xe vận tải nhỏ như con
kiến, trước giàn bê tông khổng lồ
của các đập ngăn nước.
Mức sản xuất điện năng của
nhà máy này nhiều đến nỗi có
thể cung cấp điện cho cả nước
và một phần nhu cầu của Brésil và
Argentina.
Lúc đêm đến,
trên đường về, tôi để ý
những căn nhà của công nhân đập
thủy điện không có điện sáng, mà
chỉ thắp bằng đèn cầy nhỏ
xíu. Cách những máy điện khổng
lồ nhất thế giới có mấy
thước, người ta vẫn không có
điện để thắp, mà chỉ có
đèn cầy! Vì đường dây cần
thiết để đem đến các ngôi nhà của
họ chưa được thiết lập.
Đối với
chúng ta, đôi khi cũng vậy. Đời
sống chúng ta đáng lý ra phải
được chiếu sáng bởi đèn
điện, nhưng chỉ có đèn cầy,
bởi chúng ta không nối dây liên kết với
Chúa Yêsu là sự sáng thế gian. Có
những người phục vụ trong Hội
Thánh mà không có ánh sáng trong lòng
họ.
Chúng ta giống như
khách du lịch trước cảnh đẹp,
dùng máy Polaroid để chụp hình lấy
ngay, rồi sau đó xem hình bằng giấy,
thay vì ngắm cảnh thật, để say sưa
thưởng thức cái đẹp.
Có nhiều Kitô
hữu giữ tượng ảnh bất
động của Chúa Yêsu, mà lại không biết
Ngài “diện đối diện”; vì họ chưa
bao giờ được đích thân
gặp Ngài. Họ chỉ biết lặp
lại những gì họ đã nghe, nhưng
không có kinh nghiệm sự sống mới.
“Sự sống
đời đời là nhận biết” (Yn 17,3), nghĩa là
có kinh nghiệm về Thiên Chúa, và Đấng
mà Người đã sai đến là
Đức Yêsu Kitô.
Người rao
giảng đích thực là người
trình bày lời chứng bản thân, kinh
nghiệm của chính bản thân mình đã
được cứu độ, và có
thể làm chứng là Chúa Yêsu đang
sống, bởi vì người đó
đã gặp gỡ đích thân với
Chúa Yêsu, như các Tông Đồ đã đoan
chứng:
“Chúng tôi không
thể không nói về những gì chúng tôi
đã thấy và đã nghe” (Cv 4,42).
Người loan Tin
Mừng thật không phải là người
nói về Chúa Yêsu, nhưng là người
có khả năng giới thiệu Chúa Yêsu cho
những người nghe, để họ cũng
nói như những người xứ
Samari:
“Không còn phải vì
câu chuyện của chị nói mà chúng tôi tin,
vì chính chúng tôi cũng đã nghe và
chúng tôi biết: thật Ngài là Đấng
Cứu Thế!” (Yn 4,42).
Nhưng
không ai có thể truyền đạt sự
sống của Chúa Kitô sống lại, nếu
trước đó, người ấy không
có kinh nghiệm về Chúa Yêsu đang sống
ngày hôm nay.