CHƯƠNG 7A: NHỮNG TRỢ
GIÚP CHO VIỆC CHỮA LÀNH, PHẦN 1
Một số tác giả,
khi nêu những chướng ngại cản trở việc
chữa lành, đã kê một danh sách những hành vi hay thái
độ cản trở hoạt động của Chúa.
Quan điểm ấy còn cần được bàn cãi,
vì Đức Yêsu là vịChúa Tể có thể làm
được cả những điều-không-thể, và
không một sự gì có thể ngăn chặn hoạt
động “cứu nhân độ thế” của Ngài. Ngài
hoàn toàn tự do và quyền phép, có thể hoạt động
với sự cộng tác hay không cộng tác của ta.
Điều chắc chắn là Ngài chữa lành ta một
cách nhưng không.
Chẳng hạn, người
ta quả quyết rằng Chúa không chữa vì
thấy không có lòng tin. Điều ấy có thể đúng
phần nào (x. Mc 6,5-6). Nhưng tôi đã từng chứng
kiến nhiều cuộc chữa lành nơi những người
Hồi giáo, và nơi những người không có đức
tin.
Thiên Chúa lớn hơn cả
sự thiếu lòng tin của ta. Ta không thể bắt
Chúa theo những qui luật ứng xử của ta.
Đường lối của Người không giống của
ta, song tốt hơn nhiều (Is 55,8).
Vì lý do đó, tôi
thích nói về những phương thế, hoặc
về những trợ giúp làm cho hoạt động của
Thiên Chúa được dễ dàng hơn. Ân sủng của
Thiên Chúa rất hữu hiệu, nhưng nếu được
gieo trên một thửa đất đá vun xới, thì
sẽ sinh hoa trái dồi dào hơn.
1. BẰNG CÁCH RAO GIẢNG
TIN MỪNG
Điều tai hại
nhất là rời tác vụ chữa lành ra khỏi toàn bộ
công cuộc rao truyền Tin Mừng. Việc chữa lành,
nếu bịtách rời và biệt lập khỏi việc
rao báo minh bạch ơn cứu độ trong Đức
Yêsu Kitô, sẽ dễ bịhiểu lầm.
Lời hứa của Chúa Yêsu
là:
“Nhân Danh Ta, chúng con sẽ trừ quỷ, nói các thứ
tiếng lạ…, sẽ đặt tay cho kẻ liệt lào
và họ sẽ được lành mạnh.”
Lời hứa ấy đi
sau lệnh này:
“Hãy đi khắp nơi thiên hạ, rao giảng
Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo!” (Mc 16,14-16).
Rao truyền Tin Mừng là
thiết lập sự cứu độ toàn diện cho con
người, cứu độ cả xác hồn và trí
khôn, nhờ Chúa Yêsu Kitô.
Chữa bệnh mà không loan
báo Tin Mừng cứu độ là làm một công việc
khập khiễng. Việc Thiên Chúa chữa lành thường
nằm trong toàn bộ công cuộc rao truyền Tin Mừng,
và qua phương thế ấy, chữa lành bệnh nhân –
không chỉ chữa bệnh, mà còn phải công bố một
sứ điệp. Hai việc ấy luôn đi đôi với
nhau.
Câu cuối cùng của Tin Mừng
Marcô như thế này:
“Họ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa
cùng họ hoạt động và củng cố Lời
bằng những phép lạ kèm theo.” (Mc 16,20).
Chính vì thế, tội
không thích cầu nguyện cho bệnh nhân, nếu tôi
không thể loan báo rằng: Chúa Yêsu đang sống, và
nếu không thể đưa vài chứng từ chứng tỏ
rằng: Tin Mừng là thực và ngày nay đang
được sống.
Tôi làm chứng vô số
phép lạ và việc chữa lành đã xảy ra, khi
người ta loan báo Chúa Yêsu. Tôi không hiểu tại sao còn
có những người ngạc nhiên và không chấp nhận
phép lạ. Nhưng nếu Chúa Yêsu không giữ lời hứa
của Ngài là chữa lành các bệnh nhân, khi chúng ta loan báo
danh Ngài, thì đáng ngạc nhiên hơn.
Một hôm, đang bữa
ăn, có người hỏi tôi một câu bất nhã:
- Thưa cha, cha có
chắc là cha được ơn chữa bệnh
không?
Tôi không thể trả lời
ngay, và mọi người nhìn tôi chờ đợi…
Cuối cùng, tôi nói:
- Tôi chắc một
điều là tôi có sứ mệnh rao giảng Tin Mừng,
và có các phép lạ và chữa lành đi kèm theo việc
rao báo đó. Tôi, tôi chỉ rao giảng và cầu nguyện;
còn Thiên Chúa, Ngài chữa bệnh. Với niềm tin như
thế, chúng tôi đã hợp thành một ê-kíp làm việc
rất tốt, và chúng tôi ăn ý nhau lắm.
Trong hội nghịQuébec
năm 1974, người ta mời tôi giảng một khóa
về các dấu lạ kèm theo việc rao giảng Tin Mừng.
Phòng họp đông nghẹt với 2.000 thính giả.
Nghe ngoài hành lang có nhiều tiếng ồn ào, tôi đi ra
đóng cửa để dễ cầm trí hơn. Ngoài
đó, có một bà ngồi xe lăn đã 5 năm rưỡi,
tôi mời bà vào trong, nhưng bà trả lời:
- Tôi muốn
lắm, nhưng người ta không cho đi vào, vì
phòng đầy người, phần tôi không thể đi
được.
Tôi đáp:
- Mời bà vào!
Rồi tôi đẩy xe cho
bà. Tôi đóng cửa và bắt đầu diễn giảng,
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc rao
truyền Đức Yêsu đã sống lại, Ngài chữa lành
và cứu vớt bất cứ ai. Tôi quen làm chứng về
việc khỏi bệnh của tôi, và nói rằng Chúa chữa
lành bởi vì Chúa yêu thương. Tôi nhấn mạnh sự
quan trọng của việc làm chứng, về các việc
kỳ diệu của Chúa trong đời ta. Một người
đàn ông đứng lên nói:
- Tôi là một Kitô hữu
và tin nơi Thiên Chúa. Như là một bác sĩ, tôi nghĩ:
trước khi quả quyết là đã được hỏi
bệnh, ta phải xét nghiệm y khoa để xác
nhận, như người ta vẫn làm ở Lộ Đức.
Tôi đáp:
- Với tư cách là một
bác sĩ, ông có quyền làm thế, nhưng khi có ai
được ơn lành bệnh – như trường hợp
tôi đây – họ không thể đợi các bác sĩ phán
quyết rồi mới tạ ơn Chúa.
Ông lại biện bạch
là chúng ta phải thận trọng, v.v…, và ông dùng những
ngôn từ mà tôi không hiểu gì cả… Những lời
l̃ẽ của ông lạnh như đá, rơi xuống
trên cử tọa, và tôi không biết trả lời thế
nào.
Đang khi ông bác sĩ nại
vào sự khôn ngoan và thận trọng của mình, gây ra
sự hoang mang trên cử tọa chúng tôi, thì bà ngồi
trên xe lăn – mà chính tôi gới thiệu với cả
hội trường lúc nãy – cảm nhận một sức
mạnh xâm chiếm bà. Bà đứng lên và bắt
đầu bước đi một mình trong phòng.
Từ 5 năm rưỡi
nay, do một tai nạn xe cộ, bà đã bịbại liệt.
Bác sĩ đã giải phẫu và cắt đi
xương bánh chè, như thế, theo đúng y học,
thì bà không còn có thể đi được. Nhưng
Chúa đã cho bà đi được…, giữa tiếng
vỗ tay vang rền và tiếng hoan hô, khâm phục của
tất cả cử tọa. Người thì ràn rụa
nước mắt, kẻ thì đến chúc mừng
bà. Tên bà là Hélène Lacroix.
Bà lên máy vi âm và làm chứng trước
mặt tất cả chúng tôi. Khi bà dứt lời, người
ta vỗ tay tán thưởng. Tôi hỏi ông bác sĩ,
để xem ông có nghĩ rằng cần xét nghiệm
y khoa trước đã, hay là chúng tôi phải tạ ơn
Thiên Chúa ngay. Ông ta liền quỳ xuống. Chính ông là
người bịđánh động nhất. Ông cảm
thấy buồn khổ và tủi hổ, vì phá bầu
không khí của buổi họp. Tôi nói với ông:
- Đừng lo! Hôm nay,
Thiên Chúa muốn làm một phép lạ lớn, và đã
dùng ông để tỏ rõ sự vinh quang của Người.
Người như muốn nói: “Cha Tardif không trả lời
ông được, còn đây là câu trả lời của
Ta!”
Đấy là việc chữa
lành thể lý đầu tiên mà tôi thấy tận
mắt, chính lúc rao truyền Tin Mừng.
2. BẰNG LÒNG TIN TRÔNG
ĐỢI
Lòng tin cũng như một
ống dẫn nước lớn, giúp nguồn nước
cứu độ chảy tràn vào đời ta. Đức
tin làm ta được thông hiệp với chính Thiên
Chúa, và thông phần ơn cứu thoát toàn diện, mà
được lành mạnh thể xác hay tâm hồn.
Tin là trông cậy, tín
nhiệm vào Thiên Chúa, là phú mình không điều kiện
trong tay Chúa, để mặc Chúa định liệu trên cuộc
đời mình. Thế nghĩa là đức tin làm ta
ngước nhìn lên Chúa Yêsu đã chết vì ta và
đã sống lại. Những ai chỉ nhìn vào
mình mà không nhìn lên Chúa, người ấy chỉ
nghĩ đến sự khỏi bệnh của mình
hơn là nhìn lên Đấng chữa bệnh.
Việc chính là tin vào
Chúa Yêsu, chứ không phải vịn vào lòng tin của ta. Hành
vi tin lớn nhất là tin rằng Thiên Chúa lớn
hơn lòng tin nhỏ bé của ta, và Người không
hề tùy thuộc chút gì ở ta.
Chúng tôi gọi: “Chờ
đợi trong lòng tin” là sự xác tín và trông cậy
rằng chúng ta có một Thiên Chúa hành động theo lời
Người đã hứa; là biết rằng Người
muốn chữa ta lành. Khi ta tin như thế, thì ta
đang tải một đường dây điện cỡlớn,
thay vì những dây nhỏ tí, ngõ hầu hoạt
động của Thiên Chúa được vận chuyển
qua một luồng điện cao thế mãnh liệt.
Cách chung, tôi không nhận
cầu nguyện cho người bệnh, mà trước
đó chưa khơi dậy đức tin của họ,
bằng một vài lời chứng, để họ
trông đợi và tín nhiệm vào Chúa – Đấng
muốn chữa lành họ.
Một hôm, trong Thánh Lễ,
tôi đồng tế với một Giám Mục. Bài giảng
của Ngài là một viên ngọc, trình bày cách minh bạch
giá trịcủa thập giá và đau khổ. Sau khi rước
lễ, Ngài làm tôi ngạc nhiên, khi bảo tôi cầu nguyện
cho bệnh nhân. Tôi trả lời:
- Thưa Đức Cha,
bài giảng của Đức Cha về thập giá quá hay,
đến nỗi bây giờ không còn ai muốn được
khỏi bệnh. Nhưng nếu Đức Cha cho phép,
con sẽ nói về quyền lực của thập giá và của
việc chữa lành, như dấu chứng của tình
yêu Thiên Chúa…
Chúa Yêsu đã hứa
rằng ta sẽ được điều mà tin, tin là
đã thành sự rồi (Mc 11,24):
“Ta bảo các ngươi: mọi điều các
ngươi cầu nguyện, kêu xin, các ngươi hãy tin là
được và các ngươi sẽ thấy thành sự”.
Sách Tin Mừng kể vô
số người xin và được nhận lời,
tìm và đã thấy, gõ và người ta mở cho.
Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải đơn sơ trong
lòng tin. Thế nào cũng có những người cầu
nguyện thế này:
- Lạy Chúa,
nếu đó là ý Chúa muốn, và nếu giúp ích cho
việc thánh hóa và cho phần rỗi đời đời
của con, thì xin Chúa chữa con.
Có những người
đặt ra biết bao điều kiện, đến
nỗi xem ra những điều kiện ấy bào chữa
cho sự thiếu lòng tin của họ. Chúng ta phải là
người nghèo khó, hoàn toàn tùy thuộc Cha mình. Một
đứa con không bao giờ nói với mẹ:
- Má ơi, nếu thích
hợp với con và nếu không làm hại gan và thận của
con, thì xin má cho con ăn quả trứng!
Đứa trẻ cứ
xin cách đơn sơ, còn người mẹ biết cái
gì hợp hay không hợp cho nó. Chúng ta phải là những
kẻ nghèo và khiêm tốn, và phải xin với niềm
trông cậy là sẽ được.
Còn những người
khác lại hạn chế quyền phép của Thiên Chúa
bằng cách nói:
- Lạy Chúa, con bị
bệnh tim, viêm họng và đau đầu gối,
nhưng nếu Chúa chữa con bệnh tim thì đã
đủ rồi.
Họ làm như Thiên Chúa
không thể chữa hết các bệnh của họ
được! Cầu nguyện như thế không
đúng. Không được đặt giới hạn cho
hoạt động của Thiên Chúa. Người rất hào
phóng và ban ơn cho ta dồi dào. Nếu Người có
thể ban Thánh Thần vô hạn lượng (Yn 3,34),
thì Người cũng ban ơn Thánh Thần vô hạn
định cho chúng ta. Chính Con yêu dấu của Người,
Người còn ban, thì Người có tiếc gì những
ơn huệ khác (Rm 8,32)! Khi Đức Giáo Chủ Lêô XIII mừng
lễ Kim Khánh (50 năm làm Giám Mục), một Hồng Y
muốn nịnh Ngài, nên nói:
- Chúng con xin Thiên Chúa cho
Đức Thánh Cha 50 năm như thế nữa!
Đức Giáo Chủ
đáp lại giọng châm biếm:
- Đừng hạn
chế Chúa Quan Phòng chứ! Ngày 13-06-1975, tôi về thôn quê mừng
lễ Thánh Antôn. Tôi giải tội, giảng, rồi nhanh
chân ra khỏi phòng thánh, vì tôi còn phải ban phép Rửa
tội và nhiều việc khác nữa. Một thiếu nữ
đến gặp tôi, tay dắt bà mẹ, cô nói cách
cương quyết:
- Thưa cha, cha hãy
cầu nguyện cho mẹ con được lành!
Tôi bực mình
đáp:
- Nhưng chẳng
phải chúng ta vừa cầu nguyện chung cho mọi bệnh
nhân đó ư?
Thế là, với lòng tin vững
chắc như người đàn bà Syrô-Phênixi trong Tin Mừng,
cô nói:
- Vì mẹ con
điếc, nên không biết lúc ấy cha cầu nguyện
cho bệnh nhân.
Tôi thấy động lòng
thương những người đơn sơ và
nghèo khổ ấy, tôi ra dấu bảo ngồi
xuống và tôi cầu nguyện ngắn gọn như
sau:
- Lạy Chúa, xin chữa
lành bà này, xin Chúa làm lẹ lẹ, vì con còn nhiều việc
phải làm.
Rồi cúi xuống, tôi hỏi:
- Bà bịđiếc từ
bao giờ?
- Thưa từ 8 năm
nay.
Tôi giật mình, vì
thấy bà nghe được. Tôi hỏi bà nhỏ tiếng
hơn nữa:
- Bà xem ra là một bà
mẹ tốt.
Bà mỉm cười, quả
thật bà đã nghe thấy tiếng tôi. Nhưng cái đáng
ngạc nhiên nhất, là Chúa đã nghe lời cầu nguyện
quá mộc mạc của tôi. Bà đã cảm thấy như
có một luồng gió ào ào vào tai mà mở tai bà. Lúc ấy,
tôi đã nghiệm ra được sự đúng
đắn của lời Chúa đã phán qua miệng tiên
tri Ysaia (65,24):
“Trước khi các ngươi kêu đến Ta, Ta
đã đáp lời. Các ngươi còn đang nói, thì Ta
đã nhận lời các ngươi.”
Với niềm xác tín của
một người có lòng tin, tác giả Thánh Vịnh đã
ca lên rằng:
“Khi lời tôi chưa
thập thò đầu lưỡi, thế mà, lạy Yavê,
Người đã biết hết!” (Tv 139,4).
Chính Đức Yêsu
đã xác quyết:
“Cha các con biết rõ các con cần gì, trước
khi các con xin Người” (Mt 6,8).
Lòng tin và sự chữa lành
liên kết với nhau rất mật thiết, như bà
Maria Têrêsa G. de Baez đã nói cách rất hay. Chính bà đã
được Thiên Chúa chữa lành bệnh thấp khớp
cấp tính như ta đã biết. Ơn chữa lành
này đã giúp cho cả gia đình bà đến gần
Chúa hơn. Bà nói như sau:
- Tôi không đủ lời
lẽ diễn tả; vì hôm nay, tôi không phải chỉ
cảm ơn Thiên Chúa đã chữa lành phần xác của
tôi, mà còn vì một điều lớn hơn, tuyệt
diệu hơn, đó là đức tin. Nhờ đó, Thiên
Chúa đã trở thành lời ca ngợi của tôi, là
viễn ảnh cho niềm mơ ước của tôi và là
ánh sáng cho mắt tôi.
3. BẰNG HỐI CẢI
Việc hối cải trợ
lực cho việc chữa lành thể lý cũng như
nội tâm. Bệnh tật, nói chung, là hậu quả của
tội lỗi. Nếu ta hối cải về tội lỗi
và trở lại với Thiên Chúa, thì tất yếu những
hậu quả của tội lỗi sẽ chấm dứt
(x. 1Cor 11,30).
Phải nhìn nhận
rằng: có những người đang sống trong tội
lỗi mà vẫn được Chúa chữa lành, nhưng
tôi cũng chứng kiến số đông hơn những
người đã hối cải và nhận được
ơn chữa lành. Tuy nhiên, con đường bình
thường là con đường mà ta thấy ghi trong Tin Mừng:
Trước hết là chữa
trịtội lỗi: Đức Yêsu nói cùng người
bất toại:
“Tội của con đã được tha”,
rồi sau mới chữa
lành thể xác:
“Hãy chỗi dậy,
vác chõng mà đi!” (Mc 2,5-11).
Một thanh nữ 26
tuổi, tên là Altagracia Rosariô, bịđiếc đã 2
năm, mù từ nhiều tháng, thêm vào đó, bịthiếu
máu trầm trọng làm cô không thể đi đứng,
nằm liệt giường chờ chết.
Mẹ cô đưa cô
đến buổi họp cầu nguyện thứ năm ở
Pimentel năm 1975 (x. chương II, B). Khắp nơi
đông nghẹt người là người, nên phải
đặt cô nằm xuống đất. Cô gái đau
khổ và đáng thương ấy đau đớn
nhiều, mà chẳng biết những gì xảy ra
chung quanh.
Hôm sau, cô hoàn toàn lành hết
mọi bệnh: cô nghe và thấy rõ mọi sự.
Nhưng, điều kỳ diệu nhất không phải là
việc sáng mắt và mở tai, nhưng là Chúa ngự
vào tim cô, giúp cô từ bỏ tội lỗi đã phạm
nhiều năm trước đây. Sau đó, cô trở thành
giáo lý viên, và làm chứng cho Chúa ở San Francisco de
Macoris, nơi cô sinh trưởng.
Nhiều tháng sau khi khỏi
bệnh, đang sung sướng với cuộc sống mới
Chúa ban cho, cô ngã bệnh và sốt nặng. Ngày 18 tháng 11, cô
vui vẻ nói với mẹ:
- Má ơi, con đã nghe
thấy tiếng Chúa trong lòng con. Ngài nói hai hôm nữa, Ngài sẽ
đến đem con về với Ngài.
Bà mẹ đáp:
- Con đừng nói
vậy! Cơn sốt làm con nói sảng mà lại tưởng
là tiếng Chúa. Đừng nói lại điều ấy,
người ta sẽ cười cho!
Nhưng cô cứ lặp lại
điều ấy với tất cả các giáo lý viên
đến thăm cô. Quả đúng, ngày 20 tháng 11, cô qua
đời trong sung sướng, hạnh phúc và ca hát líu
lo. Đám tang của cô sốt sắng, cảm động
giữa những tiếng hát hoan lạc và hy vọng.
Cô đã được chữa
lành đủ mọi mặt: chẳng có sầu tang và
nước mắt, chỉ có hạnh phúc và mừng vui,
vì cô đã vĩnh viễn đi gặp Đấng cô
yêu mến.
Bà Anette Giroux, 28 tuổi,
mắc bệnh rung tay. Ba má bà đưa bà đến dự
Thánh Lễ bế mạc Đại Hội ở
Montréal, ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
năm 1979. Vào lúc rước lễ, một linh mục
đem Mình Thánh đến cho bà rước lễ,
nhưng bà nói:
- Thưa cha, con không
thể rước Chúa, vì con sống trong tội.
Đã 2 năm nay, bà
sống không có phép Hôn phối với một người
đàn ông. Chính lúc ấy, tại đó, bà đã
quyết định thay đổi lối sống. Bà sám
hối, đi xưng tội, rước lễ và liều
sống theo đức tin.
Về tới nhà, bà nói với
người đàn ông đang chung sống với bà:
- Từ hôm nay, đừng
coi tôi như vợ anh nữa, trừ phi anh muốn cùng tôi
đến nhà thờ làm phép Hôn Phối đàng hoàng. Ba
hôm nữa, tôi sẽ trở về nhà cha mẹ tôi.
Bà lánh sang một phòng riêng,
và hai hôm sau, lúc bà thức dậy thì thấy có luồng
khí nóng ran khắp thân thể. Thế là bà đã
được hoàn toàn khỏi bệnh.
Như thế, bà đã
được lành bệnh, cả hồn lẫn xác, và
đã trở về nhà cha mẹ. Hai tháng sau, lễ Hôn
Phối của bà được cử hành, với sự
tham dự của nhóm cầu nguyện đã được
nghe lời chứng của bà, làm thế nào mà bà đã
thống hối ăn năn, và sau đó đã được
chữa khỏi bệnh.
Trong trường hợp
chúng tôi sắp kể thì ngược lại: Marinô
không đặt chân đến nhà thờ đã 10 năm,
nhưng lại được chữa khỏi bệnh nghiện
rượu, và lành cả bệnh loét bao tử ngay hôm
mà bà mẹ anh, Dona Sara, làm chứng về việc anh
được chữa lành bệnh nghiện rượu.
Vui mừng, anh trở
về nhà. Anh muốn được rước lễ,
song không thể được, vì hoàn cảnh rối vợ
rối chồng: anh đã có vợ, mà lại đi sống
với một người đàn bà khác, và có con cái với
bà này. Trong tình cảnh ấy, phân rẽ đôi đàng
là không thể được, mà trở về với bà vợ
trước càng khó hơn; nhưng anh cảm thấy một
cơn đói khát Chúa rất mạnh. Anh đã quyết
định ngủ một phòng riêng, và trong suốt
nhiều tháng, chỉ còn coi người đàn bà ấy
như bạn. Thế là anh đã được rước
lễ ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, và Chúa còn ban
thêm cho anh đặc sủng quý báu để đi loan
báo Tin Mừng. Anh theo tôi nhiều kỳ giảng tĩnh
tâm trong xứ, nói chuyện với những người
đã có gia đình, để động viên họ
trung thành với Chúa trong đời sống hôn nhân.
Sau vài năm anh can đảm
sống con đường khó khăn ấy, Đức
Tổng Giám Mục đã nghiên cứu kỹ cuộc hôn nhân
đầu tiên của anh, và đã thấy có một lý
do đủ mạnh để tuyên bố hôn nhân ấy
bất thành. Như thế, anh có thể làm phép Hôn
Phối hoàn toàn hợp pháp tại nhà thờ, với người
đàn bà mà anh đang chung sống. Chính Đức
Tổng Giám Mục cử hành Thánh Lễ Hôn Phối. Các cặp
vợ chồng đã nghe anh nói chuyện về sự trung
tín trong hôn nhân, đã đến dự đông chật
cả giáo đường.
Điều quan trọng
chính là Chúa Yêsu muốn chữa lành chúng ta trọn
vẹn: thân xác, tâm hồn và tinh thần. Khi thì việc
chữa lành thể xác giúp ăn năn trở lại, khi
khác thì ngược lại, sự thống hối giúp
việc chữa lành thể xác.
4. BẰNG VIỆC THA THỨ
Chúng tôi thường chứng
kiến cách thế mà việc tha thứ cho kẻ thù
dẫn tới ơn được Chúa chữa lành. Lời
nguyện Chúa dạy chúng ta đã nói rõ:
“Xin Cha tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha
kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).
Nhiều đoạn Kinh
Thánh khác cũng nói giống như vậy.
Đàng khác, khi Chúa Yêsu hứa
nhận lời cầu nguyện và ban ơn cho ai cầu
xin, thì hầu như luôn luôn tùy ở người
ấy biết tha thứ hay không (Mt 18,21; Mc 11,25).
Nhiều người
nghĩ rằng tha thứ là mất mát, song họ không
biết rằng đó là được lợi, bởi
vì nó giải thoát ta khỏi căm thù và hờn
giận. Nó làm ta nên giống Chúa Yêsu – Đấng yêu
thương kẻ thù và tha thứ cho họ –, đồng
thời mở lòng ta đón nhận ơn tha thứ và ân sủng
của Thiên Chúa. Lời chứng sau đây sẽ
rõ:
“Một lần kia, tôi cảm
thấy Chúa bảo tôi phải tha thứ cho một người
đã làm hại tôi. Song vì tôi không sẵn sàng bỏ
việc phục thù, nên tôi chống cự lại và
đưa ra lời bào chữa này:
- Lạy Chúa, tại sao
Chúa muốn con cầu nguyện cho người đó, bởi
vì dẫu sao, Chúa rất từ nhân, sẽ chúc lành cho
họ, dù cho con có xin hay không.
Và trong lòng tôi có tiếng trả
lời rõ ràng thế này:
- Đồ ngu! Sao con
không biết rằng: khi con cầu nguyện cho người
ấy, thì kẻ được chữa lành trước
hết là chính con?”
Tha thứ, chính là làm
sống lại trong ta sự sống mới mà Đức
Yêsu đem đến. Tha thứ và xin tha thứ, thì
cũng giống như tia chớp báo một trận mưa
làm đất nảy mầm. Lời chứng của anh
Evaristo cho thấy rõ:
“Từ thời thơ
ấu, giữa ba tôi và tôi đã có những vấn
đề trầm trọng, khiến tôi phải bỏ nhà
ra đi. Tôi cứ nghĩ là thời gian sẽ xóa đi những
kỷ niệm cay đắng của thời thơ
ấu, nhưng sự thực lại không như thế.
Tôi sống với gánh kỷ niệm đau thương
luôn đè nặng tim tôi.
“Thiên Chúa ban cho tôi được
biết Canh Tân Đặc Sủng, nhờ đó giải
phóng tôi khỏi những ràng buộc, ban một sức lực
thúc đẩy đời sống đức tin của tôi.
Dầu vậy, vẫn có một cái gì đó còn
thiếu vắng nơi tôi. Tôi không có niềm vui hồn
nhiên và bộc phát, mà tôi thấy nơi mọi người
thuộc nhóm Canh Tân. Tôi cảm thấy đắng cay và
chán ngán mọi sự.
“Thời gian cứ thế
trôi qua, cho đến tháng 2 năm 1977, ba tôi lâm bệnh nặng.
Tôi biết đấy là cơ hội cuối cùng
để hòa giải với ông, nhưng tôi vẫn không có sức,
không đủ can đảm để làm lành. Ngày 13 tháng 2,
ba tôi hấp hối; còn tôi, tôi đang chiến đấu với
bản thân, vì thấy không có sức tha thứ cho ông.
Tôi chỉ biết cầu nguyện, và tôi nói với
Chúa:
- Một mình con, con
không thể…
“Một tiếng bên trong nói
với tôi cách rõ ràng:
- Một mình con
thì không thể, nhưng nhân Danh Thầy, con có thể.
Đối với ai tin, mọi sự đều có
thể.
“Gương mặt đang
hấp hối của ba tôi trở nên rạng rỡ, hoặc
cũng có thể chính tôi đã nhìn ông với
đôi mắt mới, vì Chúa đã biến
đổi tôi. Tôi thấy yêu ông với trái tim của Chúa
Yêsu, và tôi ôm hôn ông với đôi tay của Chúa Yêsu.
“Từ ngày ấy, tôi
bắt đầu xướng một bài ca mới cho
Thiên Chúa chúng ta, một lời khen vui mừng kéo dài
không ngừng suốt 7 năm. Chúa đã cho tôi thấy vinh
quang và ân sủng của Ngài qua việc chữa lành nội
tâm, nhờ việc tôi tha thứ. Bây giờ, tôi sống
rất hạnh phúc, tôi vui sướng công bố lớn
tiếng rằng: Chúa đã làm những sự kỳ diệu
nơi tôi, và làm chứng rằng: tôi có thể làm
được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh
cho tôi.”
Một lời chứng khác
cũng rất đẹp, do Olga G. de Cabrera ở
Guatemala:
“Trong suốt 10 năm, tôi
phải chịu nhiều đau nhức nơi bàn chân và cánh
tay, chúng trở nên dịdạng, tôi đã cầu cứu
đến 15 ông bác sĩ, và một ông nói là tôi phải
cưa chân trái.
“Ngày 1 tháng 5 năm 1976, tôi
hoàn toàn bất toại, sẽ phải sống hết đời
mình trên giường bệnh, và trên chiếc xe lăn
mà tôi ghét cay ghét đắng. Được báo
có một Thánh Lễ cầu cho bệnh nhân tại Sân
Vận Động, tôi quyết định lăn xe
đến dự.
“Người ta đặt
tôi hàng đầu. Khi Đức Hồng Y Casariego vào, ngài dừng
lại bên tôi, và cầm tay tôi, ngài nói:
- Chúa yêu thương
con, hôm nay, Ngài sẽ chữa con.
“Đến lúc cầu nguyện
chữa lành nội tâm, tôi khóc nhiều và thật lòng tha thứ
cho tất cả những ai làm tôi đau khổ. Rồi khi
cha Tardif cầu nguyện chữa lành thể xác, tôi cảm
thấy như có một cái gì thúc đẩy và nói với
tôi: “Hãy chỗi dậy mà đi!”. Tôi cảm thấy một
sức nóng mãnh liệt và tôi run rẩy cả mình.
Mắt tôi tràn lệ, tôi chỗi dậy và bắt
đầu bước đi trước bàn thờ.”
Tác giả: Emiliano Tardif