HẠT CHÂU
NGỌC (128 bis) (ngoại lệ)
ĐỨC MẸ MARIA LÀ
MẸ THẬT
CỦA CHÚNG TA.
Ngày 1-1- hàng năm, Giáo Hội mừng kính Lễ
Mẹ Thiên Chúa. Đức Mẹ Maria là Mẹ của Thiên
Chúa, chúng ta đều tin như vậy vì Hội Thánh đã
dạy:
Vì Mẹ là Mẹ của Chúa Giêsu mà Chúa Giêsu là Thiên Chúa, vì
thế Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Điều ấy không cần bàn luận nũa.
Nhưng vấn đề là :
Làm sao Người cũng là Mẹ của chúng ta
nữa, Mẹ của tất cả loài người ?
Để giải đáp, Hội Thánh liền trích
lời Tin Mừng Gioan : “Đức Giê-su nói với thân mẫu
rằng: "Thưa Bà, đây là con
của Bà." Rồi
Người nói với môn đệ: "Đây
là mẹ của anh." (Ga 19.26-27)
Nhưng cắt nghĩa lời ấy thế nào ?
Ta thường nghe người ta bảo : Đây là
lời trối trăng của Chúa Giêsu vào những giây phút
cuối cùng trên thập giá, khi Chúa nói : “Hỡi Bà, này là con Bà” là Chúa trối Đức
Mẹ lại cho thánh Gioan. Nhưng nói như vậy có
lẽ không đúng hẳn, vì nếu Đức Giêsu
thực sự muốn trối Mẹ già lại cho một
người môn đệ còn trẻ để săn sóc
nuôi dưỡng thì theo tục lệ thời cổ,
Chúa phải nói với người đó – là thánh Gioan – trước :
“Này là mẹ anh” (Ta nhờ
anh việc này : từ nay anh hãy coi bà như mẹ anh và săn
sóc Người thay Ta), chứ chẳng khi nào lại làm
chuyện ngược đời là đi nói với mẹ
già nhận người còn trẻ đó làm con ! Thế mà, trong
trường hợp này, Chúa lại nói với Mẹ
trước “Hỡi Bà, này là
con Bà”, thành ra đây không là việc trối trăng, hay
ít ra không phải là việc chính. Việc chính là Chúa “ký
thác các con cái cho Mẹ mình” chứ không phải là trối
Mẹ già cho thánh Gioan nuôi dưỡng.
Việc Chúa Giêsu ký thác này có
một ý nghĩa trọng đại là : từ nay Đức
Mẹ sẽ là Mẹ của toàn thể nhân loại mà thánh
Gioan là người đại diện.
Chúng ta đào sâu thêm :
Đây là một lời phán truyền long
trọng : “Hỡi Bà, này
là con của Bà.” Cho nên từ “Bà” không phải là lời
xưng hô với Mẹ có tính cách dửng dưng, hay vô
lễ như chúng ta thường hiểu, mà là bởi vì “Đức
Giêsu nói với Mẹ không theo tư cách của một
người làm con bình thường, song theo tư cách
Đấng Thiên Sai, thi hành đại sự mà Cha trên
trời đã giao phó cho Người chu toàn.” (Trích Đọc
Tin Mừng theo Yoan, Tập VIII, tr.197). Hồi đầu
sứ vụ của Chúa Giêsu, khi Mẹ lên tiếng kêu
cầu cùng Chúa cho tiệc cưới ở Cana đang nửa
chừng hết rượu : “Họ
hết rượu rồi”, Chúa cũng đã xưng hô
với Mẹ như thế : “Thưa
Bà, chuyện đó can gì đến Bà và Tôi ? Giờ của
Tôi chưa đến.”(Ga 2.3-4). Và qua cách xưng hô
kiểu cách đó, chúng ta thấy hai sự việc ấy
có liên hệ với nhau. Như thế nào ?
Chúa Giêsu
mang sứ mệnh cứu độ trọng đại
từ Thiên Chúa Cha, nên làm gì Người cũng nhìn theo
kế hoạch của Thiên Chúa. Với Mẹ Maria, Chúa
cũng nhìn Mẹ theo viễn tượng Mẹ là
Người Phụ Nữ được tuyển chọn
làm Đấng Trung Gian cầu bầu trong tư cách là
Mẹ.
Theo
kế hoạch đó của Thiên Chúa thì Mẹ chỉ làm Đấng
Trung Gian cầu bầu khi
đến Giờ của Chúa, Giờ trọng
đại của Người được tôn vinh làm Đức
Chúa qua Tử nạn và Phục sinh. Lúc đó Chúa sẽ
đặt Mẹ mình vào chức vụ đó qua câu : “Hỡi
Bà, này là con Bà”. Còn trước đó, Chúa sẽ nói với
Mẹ là chưa đến
Giờ ấy: “Thưa
Bà, chuyện đó can gì đến Bà và Tôi ? Giờ
của Tôi chưa đến.”
Chúng ta cứu xét cặn kẽ hơn hai sự
kiện liên kết ấy :
Sự kiện 1-
Tại Cana : Hồi Chúa mới bắt đầu sứ
vụ, Đức Maria và Chúa cùng với mấy môn
đệ dự đám cưới, thấy họ hết
rượu, Mẹ đến xin Chúa Giêsu can thiệp, giúp
đỡ. Nhưng Chúa Giêsu đáp :“Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và
tôi ? Giờ của tôi chưa đến.” (Ga 2,4). Ngay
lập tức Chúa không nhìn sự can thiệp này của
Mẹ trên bình diện phàm trần (Mẹ thương
đám cưới sẽ bị chê cười, như
người đời thường nói “ma chê, cưới
trách”), mà đưa Mẹ lên bình diện cao siêu của
kế hoạch cứu độ, ở đó Mẹ sẽ
là Đấng Trung gian cầu bầu. Nhưng hiện
thời thì Giờ trọng đại ấy chưa
đến. Chúa như muốn nói rằng Giờ của
Chúa còn chưa đến thời đến buổi, sao
Mẹ đã vội thực hiện vai trò là Đấng Môi
Giới cầu bầu cho nhân loại, khi Mẹ cầu
bầu cho đám cưới nửa chừng thiếu
rượu. Mẹ phải đợi.
Sau khi đưa tầm mắt Mẹ nhìn lên cao,
Đức Giêsu nghe theo lời Mẹ làm phép lạ hóa
nước thành rượu. Bây giờ chúng ta mới
hiểu câu Chúa nói với Mẹ đó không là lời từ
chối can thiệp theo lời Mẹ gợi ý.
Sự kiện 2-
Dưới chân thập giá : Chúa Giêsu thấy Mẹ mình và
người môn đồ Người yêu dấu
đứng dưới chân thập giá, Người nói
với Mẹ : “Hỡi Bà, này
là con của Bà.” (Ga
19.26), Chúa muốn nói rằng : Thưa Mẹ, Giờ
trọng đại đã đến, Con đặt Mẹ
làm Mẹ của Hội Thánh, Mẹ của nhân loại,
từ nay Mẹ sẽ thi hành chức vụ làm Môi giới,
cầu bầu, cứu giúp cho các con của Mẹ.
Qua
lời phán truyền đó, ngay dưới chân thập giá Chúa
Giêsu đã thành lập một gia đình thiêng liêng. Đó là
Hội Thánh Chúa Kitô : Maria là Mẹ, Chúa Giêsu là Anh cả,
chúng ta là đoàn em. Và Thiên Chúa là Cha. Chính Chúa Giêsu sau phục
sinh đã tuyên bố điều ấy với cô Maria
Mađalêna: “Hãy đi gặp anh em Thầy
và bảo họ : ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng
là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng
là Thiên Chúa của anh em’.” (Ga 20.17)
Khi chúng ta nói như trên đây : Chúa Giêsu “đặt” Đức Mẹ
làm Mẹ chúng ta ! thì là nói chưa đầy đủ, vì trong
đoạn Ga 19,25-27, khi Chúa nói với Mẹ : “Hỡi Bà, này là con của Bà”
thì Người không chỉ trao cho Mẹ mình chức vụ
làm Mẹ nhân loại, mà phải nói rằng : Người công
bố ra công khai, hay đúng hơn Người mạc
khải một mầu nhiệm, một thực tại
nhiệm mầu đã tiềm ẩn sẵn từ
trước rồi : tức là Mẹ đã là Mẹ nhân
loại, Mẹ chúng ta, khi Mẹ nhận thụ thai và làm
Mẹ Chúa Giêsu, bởi vì theo Thánh Kinh, Chúa Giêsu là Đầu
của Hội Thánh (là chúng ta, những người tin) và
Hội Thánh là thân thể của Chúa Giêsu :
“Thiên Chúa
đã đặt tất cả dưới chân Đức
Ki-tô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh;
mà Hội
Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của
Người, Đấng làm cho tất cả
được viên mãn.”
(Ep 1,22-23;
Cl 1,18)
Khi cưu mang Chúa Giêsu Đầu, thì
Đức Mẹ cũng đã cưu mang chúng ta là thân mình
trong dạ Người ! Không có người mẹ nào
chỉ cưu mang và sinh hạ cái đầu không có thân
thể ! Khi Mẹ sinh
hạ Chúa Giêsu là Anh cả, thì Mẹ cũng sinh ra trong
ơn thánh tất cả chúng ta làm em của Người
như Thánh Phaolô viết trong thư Rôma :
“Vì những ai Thiên Chúa đã biết
từ trước, thì Người đã tiền
định cho họ nên đồng hình đồng
dạng với Con của Người, để Con
của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông
đúc.” (Rm 8,29)
Như
thế, sự thật tiềm ẩn được Chúa
Giêsu mặc khải ra là : Mẹ đã là Mẹ thật của chúng ta ngay
từ ngày truyền tin, lúc Mẹ vui lòng nhận thụ thai
và làm Mẹ Chúa Giêsu.
Đến
đây tôi có một câu hỏi anh chị em : Mẹ đẻ với Mẹ thật có khác nhau không ?
<mời họ trả lời …>
Khi nói
đến “Mẹ thật” là ta muốn nói đến
một người mẹ làm tròn nhiệm vụ, giữ
đúng chức năng của một người mẹ.
Trong thực tế, có nhiều người mẹ
đẻ mà không là mẹ thật, vì không làm tròn chức
năng của một người mẹ thật, ví dụ
nhu khi ta thấy có bà thì lo tìm tự do và thoả thích cho
riêng mình, lơ là không dạy dỗ con cái, có khi còn giận
ghét chúng, tệ hơn nữa, có bà còn bỏ cả con mình mà
đi với người đàn ông khác…Tóm lại : “mẹ
đẻ ” chưa chắc là “mẹ thật”.
Còn Đức Mẹ Maria thì tuy
không là mẹ đẻ ra chúng ta, song lại là Mẹ
thật của chúng ta. Về Đức Maria là Mẹ, thì những gì nói
trên kia đã xác minh. Nhưng nếu chúng ta muốn nhấn
mạnh đến tư cách Mẹ thật, thì
chúng ta cũng lại phải dựa vào Thánh Kinh :
Từ “thật” theo Tin Mừng Gioan có nghĩa là đích thật như Chúa
Giêsu đã tuyên bố trong Ga 15.1 : “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là
người trồng nho…” hay Ga 6,55 : “…vì thịt tôi là của ăn thật, và máu tôi
là của uống thật.” Khi tuyên bố như
thế, Chúa Giêsu muốn nói rằng : Một thực
phẩm đích thật là thực phẩm thực hiện
đúng chức năng của nó là làm cho sống, còn
thực phẩm nào ăn vào rồi mà vẫn cứ
phải chết, thì chưa đúng chức năng của
thực phẩm. Vậy Người có dạy về Phép
thánh Thể : Thịt và Máu của Người có chức
năng nuôi dưỡng thật sự, ai ăn thì có sự
sống đời đời không bao giờ phải
chết nữa, khác với Manna hay bất cứ thức
ăn trần gian nào, chỉ là thức ăn tạm
thời, ăn rồi sau đó người ta vẫn
phải chết.
Đức Khổng Tử cũng
có một câu nói theo nghĩa đó : “Quân quân, thần
thần, tử tử” nghĩa là người làm vua thì
phải ăn ở sao cho tròn chức năng, nhiệm
vụ làm vua, thần dân hay con cái cũng vậy.
Những điều người ta kể
về Mẹ Maria Mễ Du đã làm tôi cảm nhận
được Mẹ Maria là Mẹ thật
của tôi ! Tôi đã hết sức cảm động khi
đọc những lời các thị nhân ở Mễ du
thổ lộ. Chẳng hạn như đoạn người
ta phỏng vấn cô Mirjana :
Hỏi : Thế
hiện nay Đức Mẹ hiện ra với cô cách
thế nào, Mirjana ?
Đáp : Tôi thấy Người ở cả 3
chiều, y
như tôi nhìn thấy một người bình thường
đang ở với tôi. Mẹ thật gần gũi và
thật thân tình hơn cả mẹ đẻ có thể
đối xử với tôi.
H : Cách như thế nào hở Mirjana ?
Đ : Đức Mẹ biết rõ tôi và yêu
thương tôi, con người tôi ra sao, Mẹ
thương tôi như vậy. Mẹ luôn luôn mong muốn
điều tốt nhất cho tôi, Mẹ đặt tin
tưởng vào tôi, Mẹ thương mến tôi.
H : Cô có nói : Đức Mẹ là Mẹ
“thật” chúng ta. Tại sao ?
Đ : Bởi vì
Người là Mẹ sự sống vĩnh cửu của
chúng ta. Chúng ta là các con cái mà Chúa Giêsu
đã trao phó cho Mẹ từ trên Thập Giá, Mẹ muốn
mỗi người con cái Mẹ được về thiên
đàng với Chúa Giêsu, với Thiên Chúa đời
đời.
Các thị nhân còn kể thêm về Mẹ : “Một hôm Mẹ bảo ngày mai
trời trở lạnh, các con nhớ mặc áo ấm
kẻo bị cảm.” Nghe câu đó, tôi cảm động
chảy nước mắt ra, vì cảm nhận
được tình yêu thương, lo lắng, chăm sóc của
Mẹ Maria đối với con cái ngay cả về
phần xác.
Lần
khác, còn được nghe kể rằng cô Ivanka là một
thị nhân mồ côi mẹ, má cô đã mất hơn hai
tháng trước khi Đức Mẹ hiện ra ở
Mễ Du, cho nên không có ai dạy dỗ những điều
cần thiết cho cuộc hôn nhân của cô, và thế là
Đức Mẹ đã đến hướng dẫn,
chỉ bảo cô trong những ngày cưới đó như
một người Mẹ thật. Từ đó, ở
Mễ Du Đức Mẹ được mệnh danh là
“Mẹ của cô dâu”.
Sung sướng cho chúng ta biết bao, khi
được biết Đức Mẹ cũng lo
lắng, săn sóc cho chúng ta ngay cả những chuyện
nhỏ nhặt phần xác nữa, chứ không chỉ là
người Mẹ thiêng liêng chăm lo phần hồn
như ta thường nghĩ về Mẹ.
Mẹ
thật là Mẹ thật của chúng ta ! Trọn vẹn,
chu đáo cả phần hồn lẫn phần xác.
Ai
sống niềm tin tưởng ấy trong cầu
nguyện và suy gẫm, sẽ được Chúa soi sáng
để hiểu được Mẹ là Mẹ thật theo ý nghĩa sâu
xa đến thế nào, và dần dần cảm nhận
được tình Mẹ đối với mình tha
thiết, thân mật, gần gũi biết bao, như
đã có lần Mẹ thổ lộ :
“Nếu các con biết Mẹ yêu thương
các con nhiều đến chừng nào, các con sẽ khóc lên
vì vui sướng.”
(SĐ 21-6-1984)
***
|