HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN A
Is 55,6-9 ; Pl 1,20c-24.27a ; Mt 20,1-16a
BAO DUNG NHÂN HẬU NOI GƯƠNG THIÊN
CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt
20,1-16a
(1) Nước Trời
giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng
sáng đã ra mướn thợ vào làm
việc trong vuờn nho nhà mình. (2) Sau khi đã
thỏa thuận với thợ là mỗi ngày
một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho
làm việc. (3) Khoảng giờ thứ ba, ông lại
trở ra, thấy có những người
khác ở không, đang đứng ngoài chợ.
(4) Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa,
hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả
cho các anh hợp lẽ công bằng” (5) Họ
liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi
giờ thứ chín, ông lại trở ra và
cũng làm y như vậy”. (6) Khoảng giờ mười
một, ông trở ra và thấy còn có những
người khác đứng đó, ông nói
với họ: “Sao các anh đứng đây suốt
ngày không làm gì hết? “ (7) Họ đáp:
“Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ:
“Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn
nho !”. (8) Chiều đến, ông chủ vườn nho
bảo người quản lý: “Anh gọi thợ
lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ
những người vào làm sau chót cho tới
những người vào làm trước
nhất”. (9) Vậy những người mới
vào làm lúc giờ mười một tiến
lại, và lãnh được mỗi người
một quan tiền. (10) Khi đến lượt những
người vào làm trước nhất, họ
tưởng sẽ được lãnh nhiều
hơn. Thế nhưng cũng chỉ được
lãnh một người một quan tiền. (11) Họ
vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ:
(12)“Mấy người sau chót này chỉ làm
có một giờ. Thế mà ông lại coi họ
ngang hàng với chúng tôi là những người
phải làm việc nặng nhọc cả ngày,
lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. (13)
Ông chủ trả lời cho một người trong
bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có đối
xử bất công với bạn. Bạn đã
chẳng thỏa thuận với tôi là một
quan tiền hay sao ? (14) Cầm lấy phần của bạn
mà đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào
làm sau chót này cũng được bằng
bạn đó. (15) Chẳng lẽ tôi lại không có
quyền tùy ý định đoạt về những
gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt
bung, mà bạn đâm ra ghen tức ? (16a) Thế là
những kẻ đứng chót sẽ được
lên hàng đầu. Còn những kẻ đứng
đầu sẽ phải xuống hàng chót.
2. Ý CHÍNH: DỤ
NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO
Bài Tin Mừng hôm nay ví
Nước Trời do Đức Giê-su lập
giống như câu chuyện một ông chủ vườn
kêu thợ làm vườn
nho. Có 4 tốp người
được kêu
vào 4 thời điểm
khác nhau trong ngày. Khi trả lương, chủ vườn lại trả lương từ người làm vào
giờ chót tới người vào làm từ
giờ đầu. Mỗi
người đều được trả một
quan tiền. Khi bị phiền trách, ông chủ cho biết
ông đã không bất công khi trả lương đúng theo
thỏa thuận. Còn việc ông trả cho người
sau bằng người đầu là do lòng
nhân hậu của ông. Cũng vậy, sau này Thiên Chúa
sẽ ban ơn cứu độ cho mọi người
gia nhập vào Nước Trời là Hội
Thánh. Dù là dân ngoại vào trễ hay dân Do
Thái vào từ đầu, tất cả đều
được hưởng ơn cứu độ.
Chỉ cần họ có đức tin là đủ.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Nước
Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa
tảng sáng đã ra mướn thợ vào
làm việc: Bên Do Thái vào mùa hái nho,
ngay từ sáng sớm, các chủ vườn
thường ra ngã ba đường hay ra chợ
người để thuê người đi làm
công cho mình. Chủ vườn nho tượng
trưng Thiên Chúa muốn mời gọi tất cả
mọi dân tộc đều được đi làm
vườn nho tức là được gia
nhập vào Nước Trời là Hội
Thánh. + thỏa thuận với thợ là
mỗi ngày một quan tiền: Vào thời
Đức Giê-su, chủ vườn nho thường
trả lương công nhật cho thợ làm vườn
là một quan tiền. Ở đây ông chủ đã
hứa trả lương công nhật là một
quan tiền ngay từ khi thuê họ vào làm việc.
- C 3-7: + Giờ
thứ ba: Thời bấy giờ thời
gian một ngày được tính từ lúc
mặt trời lặn. Vì thế luật
qui đình ngày Sa-bát bắt đầu từ
18g00 chiều thứ sáu. Nhưng khi tính giờ,
người Do Thái lại tính từ lúc
mặt trời mọc vào buổi sáng. Thời gian từ mặt
trời mọc đến mặt trời lặn
được chia làm 12 giờ. Vậy giờ
thứ nhất, thứ ba, thứ sáu, thứ
chín và thứ mười một tương
đương với 6 giờ, 9 giờ, 15 giờ
và 17 giờ như ngày nay. Giờ lao động
của người Do thái mỗi ngày bắt
đầu từ 6 giờ sáng và kết thúc
lúc 18 giờ chiều. + Ông chủ vườn
mời người đi làm vườn
nho: Thiên Chúa muốn cho mọi người
đều được hưởng ơn cứu độ,
và người ta có thể vào Nước
Trời là gia nhập
Hội Thánh ở
nhiều thời điểm khác nhau. + Tôi sẽ
trả công cho các anh hợp lẽ công bằng:
Trả lương công bằng, nghĩa là người
làm thuê sẽ không bị thiệt thòi về tiền
công. + Khoảng giờ thứ sáu rồi giờ
thứ chín, ông lại ra và cũng làm y như
vậy: Ông chủ nôn nóng đi kêu thợ làm
trong nhiều thời điểm khác nhau trong ngày
mà không tính toán thiệt hơn, cho thấy lòng
bao dung nhân hậu của Thiên Chúa. Người không
muốn cho kẻ có tội phải chết, nhưng
muốn họ ăn năn sám hối để được
sống. + Khoảng giờ mười một:
Giờ thứ mười một tương
đương với 17 giờ chiều, là giờ
cuối của ngày. Thợ
chỉ phải làm một tiếng. + Vì không ai mướn
chúng tôi: Những người này đứng
không suốt ngày do không được ai thuê mướn.
+ Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn
nho ! : Ông chủ kêu thợ vào làm vườn
nho vào giờ cuối là do lòng thương
xót, chứ không do nhu cầu công việc. Điều này
cho thấy ơn cứu độ được ban cho không, hoàn toàn
do tình thương bao dung của Thiên Chúa, chứ
không do công khó của con người.
- C 8-10: + Anh gọi
thợ lại mà trả công cho họ, bắt
đầu từ những người vào
làm sau chót cho tới những người
vào làm trước nhất: Việc trả
lương cách khác thường khi đảo
lộn thứ tự trước sau và tiền lương một
quan tiền được trả cho các người
thợ làm việc nhiều ít khác nhau. Khi
sắp xếp việc trả lương như vậy,
ông chủ muốn diễn
tả tình thương bao dung của Thiên Chúa
đối với hết mọi người. Bất
cứ ai dù là Do thái hay dân ngoại, dù
theo đạo từ khi mới sinh hay trước
khi chết, nếu thành tâm tin yêu Thiên Chúa thì
đều được Người cho hưởng
hồng ân cứu
độ.
- C 11-13: + Họ vừa
lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: Họ trách móc ông chủ
hai điều: Một
là họ phải làm việc vất vả suốt
từ sáng sớm đến chiều tối,
đang khi những người làm vào giờ
thứ mười một chỉ phải làm có
một giờ. Hai là họ phải chịu sự
nắng nôi khó nhọc, đang khi những người
làm sau vào ban chiều không chịu nắng
gắt. Họ muốn được chủ trả
lương cao hơn những người làm
sau. + Này bạn: Kiểu xưng hô này vừa
khoan dung lại vừa
trách nhẹ mong họ nghĩ lại. Giống như Đức Giê-su đã nói với Giu-đa khi anh ta dẫn dân quân
Đền thờ đến
bắt Người trong vườn Ghết-sê-ma-ni
(x. Mt 26,50). + Tôi đâu có xứ bất công với
bạn ?: Việc trả lương một quan tiền
cho những người thợ đến sau
không gây thiệt hại gì cho những người
làm trước. Những người làm
từ giờ thứ nhất đã nhận đủ một quan tiền,
theo đúng thỏa
thuận ban đầu.
- C 14-16b: + Chẳng
lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định
đoạt: Việc trả lương cho người
đến làm sau cũng được một
quan tiền là do lòng quảng đại của ông chủ, chứ không do công lao của họ.
Qua đó Đức
Giê-su muốn dạy: Dân Do thái đừng ganh tị với lương
dân khi Thiên Chúa cũng ban cho lương dân được
thừa hưởng lời hứa cứu độ giống như họ. Người tín hữu đạo đức cũng đừng ganh tị
với các tội
nhân hay người
lương khi thấy
Chúa đối xử nhân từ, cho họ được ơn cứu
độ vào lúc cuối đời. + Hay vì
thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức:
Ông chủ vạch rõ tâm địa ganh ghét xấu
xa của nhóm thợ làm sáng sớm,
không muốn người làm sau được
bằng họ.
4. CÂU HỎI:
1) Ông chủ vườn nho
trong dụ ngôn ám chỉ ai? Việc ông chủ vườn
nho đi kêu mời người đi làm vườn
nho cho ông trong nhiều thời điểm khác nhau
có ý nghĩa gì? 2) Người Do thái
thời xưa tính ngày mới bắt
đầu từ khi nào? Mỗi ngày có bao
nhiêu giờ lao động và thời giờ
ấy tương đương với giờ hiện
nay ra sao? Giờ thứ mười một hiện
nay là mấy giờ chiều? 3) Ông chủ hứa
trả lương công nhật là bao nhiêu và hứa
trả lương hợp lẽ công bằng nghĩa
là gì? 4) Việc ông chủ đi kêu thợ làm
vườn nho vào nhiều thời điểm
khác nhau trong ngày, nhất là vào giờ thứ mười một cho thấy
ông là người
thế nào? 5) Việc trả lương thợ của ông chủ vườn khác thường
ở điềm nào? Điều này nhằm
nói lên điều gì về tình thương cứu
độ của Thiên Chúa đối với loài
người chúng ta? 6) Những người
làm từ giờ thứ nhất phiền trách ông chủ thế nào? 7) Qua câu trả lời,
ông chủ cho thấy việc ông trả lương bằng
nhau cho những người làm công thời
gian nhiều ít khác nhau có bất công như họ
kêu trách không? 8) Ông chủ phê phán ra sao thái
độ của bọn thợ làm từ giờ
thứ nhất?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông
chủ trả lời cho một người trong bọn
họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất
công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa
thuận với tôi là một quan tiền hay sao ? Cầm
lấy phần của bạn mà đi đi. Còn
tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót
này cũng được bằng bạn
đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền
tùy ý định đoạt về những gì
là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng,
mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20,13-15).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐA-VÍT ĐỐI XỬ BAO DUNG ĐÁP
LẠI SỰ GANH GHÉT
HẬN THÙ CỦA SA-UN:
Theo sách Sa-mu-en, Đa-vít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến
công oanh liệt. Ông
đã cứu nguy cho dân
quân Ít-ra-en bằng cách
giao chiến một-chọi-một
với tên đại
tướng khổng lồ Gô-li-át thuộc quân Phi-li-tinh, đã hạ gục y bằng một
phát bắn đá
thô sơ và đã dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Sau đó quân
Ít-ra-en thừa thắng xông
lên như nước vỡ
bờ, tràn lên giết
hại rất nhiều quân địch Phi-li-tinh. "Khi Đavít
thắng trận trở về,
phụ nữ từ hết mọi thành của Ít-ra-en kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Đa-vít
với trống con, tiếng
reo mừng và não bạt.
Họ ca hát như sau : "Vua Sa-un giết được hàng ngàn,
Đa-vít giết hàng vạn".
Thế là từ lúc
ấy, lòng ghen tỵ sục sôi trong lòng
vua Sa-un, khiến nhà
vua tìm cách giết chết
Đa-vít. Có lần phóng
giáo vào Đavít khi anh đang gảy đàn để
phục vụ đức vua. May mà Đa-vít đã kịp né tránh và đã thoát
chết trong gang tấc. Rồi
sau đó, khi Đa-vít chạy trốn, vua Sa-un đã đích thân truy đuổi, quyết hạ sát
cho bằng được
Đa-vít để trừ
hậu họa. Lần kia khi đang bị truy đuổi,
Đa-vít đã có cơ hội trốn ngay bên vua Sa-un trong một cái hang tối, Đa-vít đã có thể giết chết Sa-un để
trả thù, nhưng ông không làm thế, mà chỉ cắt một miếng ở giải
áo của vua để
chứng minh lòng trung thành của mình mà thôi (Samuen I, ch 17-18).
2) MỘT ÔNG VUA NHÂN TỪ QUẢNG
ĐẠI :
Tại nước Tây Ban Nha
có một ông vua tên là An-phong-sô rất nhân từ
và quảng đại. Ngài thường cải
trang làm thường dân vi hành đó đây
để tận mắt chứng kiến những
nỗi đau khổ và oan ức của nhân dân do
bọn quan lại địa phương gây ra, để
kịp thời sửa sai chấn chỉnh. Ngày
nọ, đức vua cải trang đến một tỉnh
lẻ và thuê
một phòng trọ trong một nhà nghỉ bình dân. Sáng hôm sau,
nhà vua yêu cầu bồi phòng mang đến cho ông
một chiếc gương để cạo râu. Khi đem chiếc gương cho vị khách, anh
bồi phòng thấy khuôn mặt ông khách rất
dễ mến, nên đã chủ động bắt
chuyện: “Này ông, tôi có cảm tưởng ông
không phải là loại khách du lịch bình thường”. Nhà vua tò
mò muốn biết anh bồi phòng nghĩ gì
về mình, nên hỏi: “Sao anh lại nói như vậy
?” Người bồi phòng trả lời rằng:
“Vì tác phong và vẻ bề ngoài của ông
có cái gì đó khác với dân bình
thường. Chắc ông phải là người
thuộc triều đình nhà vua tại thủ
đô Ma-trít (Madrid) cũng nên”. Nhà vua chỉ đáp
lại cách mập mờ: “Một cách nào đó
anh nói cũng đúng đó!” Anh bồi phòng
lại hỏi thêm: “Vậy hẳn ông phải là một
quan chức luôn được hầu cận đức vua?” Nhà vua
trả lời: “Anh đoán thật chẳng sai
chút nào”. Người bồi phòng càng
tò mò hơn và hỏi tiếp: “Phục vụ
đức vua thì thông thường phải làm
những việc gì hả ông?” Nhà vua mỉm cười
hóm hỉnh đáp: “Ồ, làm nhiều việc
lắm, đại loại như bây giờ tôi
sắp phải cạo râu cho ngài”.
Người bồi
phòng trong câu chuyện trên đã gặp được
chính đức vua và được ngài
hé mở cho biết phần nào sự thật
về ngài. Các câu đối đáp giữa
đức vua và người bồi phòng
cho thấy thái độ nhân từ và khoan dung
giống như ông
chủ vườn nho, tượng trưng cho Thiên
Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Những người
đi làm vườn trễ
ám chỉ dân ngoại và những kẻ tội lỗi.
Họ được
Thiên Chúa mời
gia nhập Hội Thánh vào nhiều giờ khác nhau, cũng
có người đi làm
vào giờ thứ
mười một,
tức là tin
theo Chúa vào lúc cuối đời trước
khi chết. Đây cũng là trường hợp
của người trộm lành trên cây thập giá
ở bên phải Đức Giê-su. Ông ta
nhờ lòng tin
và sự thành tâm
sám hối, nên đã được Người
tha tội và còn hứa sẽ lập tức ban hạnh
phúc thiên đàng cho anh như sau: “Tôi bảo thật anh:
hôm nay, anh sẽ được ở với tôi
trên thiên đàng” (x. Lc 23,42-43).
3) TÂM ĐỊA XẤU XA CỦA HAI KẺ
THAM LAM VÀ GANH TỊ:
Ở Ấn Độ truyền
tụng một câu chuyện vui như sau: Trong triều đình có hai viên
quan phục vụ cho nhà
vua được một
thời gian lâu. Một
ông có tính ganh tị, còn
ông kia lại có tính
tham lam.
Để sửa chữa tật xấu
cho hai quan chức này, vua cho triệu vời cả hai vào chầu. Nhà vua loan báo sẽ thưởng công xứng đáng cho cả hai vì đã có công phục vụ nhà vua nhiều năm qua. Vua hứa sẽ
ban thưởng cho họ bất cứ điều gì.
Có điều phần thưởng
vua ban sẽ tùy ý muốn
của hai người: Ai mở miệng xin trước sẽ
được phần thưởng như ý của mình, nhưng người kia lại sẽ được
ban thưởng cho gấp đôi số đó.
Sau khi nghe vua phán, cả hai vị quan đều
im lặng suy tính. Kẻ
tham lam suy tính : Nếu
ta xin trước thì sẽ chỉ nhận được một nửa so với
tên kia. Còn người
ganh tị lại nghĩ : Ta dại gì mà mở miệng xin trước để
cho tên kia được
hưởng lợi gấp đôi của ta. Cứ như thế một
lúc lâu vẫn chẳng
thấy ai trong hai viên quan mở miệng ra xin trước. Cuối cùng nhà vua
yêu cầu đích danh
viên quan có tính ganh tị được quyền xin trước.
Hắn đã kịp
nghĩ ra cách xin có hại
cho kẻ kia như sau: "Thần xin đức vua ban cho
thần bị chột một con mắt". Hắn xin như
vậy để cho viên quan kia bị mù cả hai mắt. Chính sự ganh tị đã làm cho hắn mất đi tính người. Câu chuyện cho thấy: Ở đời,
người ta do lòng ganh tị dễ sinh ra hờn oán nhau: Chỉ một miếng ăn, một
chén gạo, một món
lợi nhỏ cũng đủ
để họ ra tay làm hại kẻ khác ...
4) SỐ PHẬN CỦA KẺ CÓ
LÒNG GANH GHÉT THÙ HẬN:
Trong một vở kịch, nhà đạo diễn JEAN A-NOU-ILB đã
dàn dựng cảnh ngày
phán xét chung theo trí tưởng
tượng của ông : Những kẻ lành đang đứng thành hàng chen nhau để lần lượt được
thánh Phê-rô cho vào thiên đàng … Nhưng rồi khi thấy bên hàng đối diện có nhiều người tội lỗi
trộm cướp đĩ điếm cũng đang xếp
hàng để vào
thiên đàng. Họ nhìn
nhau, không thể hiểu
được tại sao Chúa lại cho bọn người đầu trộm đuôi
cướp kia cũng được
vào thiên đàng giống
như mình. Rồi họ
bất mãn và hè nhau la ó phản đối Chúa đã bất công khi làm như thế. Họ nói to: “Tôi mà
biết thế này thì
khi còn sống tôi cứ ăn nhậu say xỉn và
chơi bời dâm
đãng ! Cần gì phải vất vả sống
ngay chính và làm các việc
bác ái !”. Họ còn
động viên nhau phản đối Thiên Chúa
bằng cách không thèm
vào Thiên Đàng. Cuối cùng
cả bọn đã tự loại mình ra khỏi Thiên Đàng để vào trong Hỏa Ngục, nơi dành cho ma
quỷ và những kẻ đi theo chúng,
đúng như lời Chúa
phán như sau: “Rồi Đức
Vua sẽ phán cùng những
người ở bên trái rằng: ‘Quân bị
nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà
vào lửa đời đời,
nơi dành sẵn cho Tên
Ác Quỷ và các sứ thần của nó…”
(Mt 25,41).
3. SUY NIỆM:
1) NGƯỜI CON
CẢ VÀ CÁC THỢ LÀM VƯỜN GIỜ THỨ NHẤT:
Trong dụ ngôn về người
cha nhân hậu, anh con cả đã có thái độ bất mãn với
người cha khi ông tỏ
lòng bao dung tha thứ cho đứa em hư hỏng
đã bỏ đi hoang, giờ
quay về nhà. Không những ông không trừng phạt
tội bất hiếu của nó, mà còn truyền
cho gia nhân giết dê béo ăn mừng. Người
con cả đã tỏ thái độ bất mãn ganh ghét khi không thèm
vào trong nhà và còn lên tiếng phiền trách cha: “Cha ơi, đã bao
nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng
khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ
cha cho lấy một con dê con để vui vẻ với
bạn bè. Còn thằng con của cha đó,
sau khi đã nuốt hết tài sản của cha với
bọn đàng điếm, nay trở về, thì
cha lai giết bê béo ăn mừng nó !” (Lc
15,28-30). Trong Tin mừng hôm nay, những người
đi làm từ sáng sớm cũng cằn
nhằn ông chủ vườn nho khi thấy ông trả
lương cho người đi làm vào giờ thứ mười một,
dù chỉ làm việc một tiếng
đồng hồ, cũng được trả lương
một quan tiền, ngang bằng với họ đi làm từ giờ thứ nhất, chịu
nắng nôi khó
nhọc trong suốt cả ngày.
Khi Đức Giê-su
ra giảng đạo, các kinh sư và người
Pha-ri-sêu cũng tỏ
thái độ khó
chịu khi thấy Người đối xử
thân tình với bọn thu thuế, gái điếm
và những kẻ tội lỗi. Như một mục tử tốt lành, Người đi tìm từng
con chiên lạc, đem lại
cho những người bất hạnh
niềm vui và hạnh phúc. Người mời họ ăn năn sám hối
và hứa ban Nước Trời cho họ.
Như vậy, Đức
Giê-su cho rằng người
tội lỗi cũng được
hạnh phúc trong Nước
Trời ngang bằng các kinh sư và người
Pha-ri-sêu, là những người
tuân giữ từng điều luật nhỏ mọn và đã tự hào mình là một người công chính.
2) THẾ NÀO LÀ
THÓI XẤU ĐỐ
KỴ GANH GHÉT ?
- Ngày từ thuở
bình minh của nhân loại, sau khi nguyên tổ loài
người phạm tội, sự dữ đã
lọt vào thế gian. Ca-in đã tỏ thái độ ganh tị với em là A-ben, khi thấy Thiên Chúa chấp
nhận lễ vật của A-ben và bỏ không nhận lễ vật của
mình. Do lòng đố kỵ,
Ca-in coi A-ben là kẻ thù và đã ra tay giết
chết em. Cuối cùng hắn đã bị trừng phạt. Như vậy kẻ
ganh tị vừa
huỷ diệt người
khác, lại vừa
tự hủy chính mình.
- Trong Tin Mừng hôm nay, những người
thợ làm việc từ sáng sớm cũng
đã cằn nhằn ông chủ vì đã trả
lương cho người thợ làm vườn nho sau được một
quan tiền, ngang bằng với họ đã chịu
nắng nôi vất vả suốt cả ngày. Giả
như ông trả cho người làm sau số tiền
ít hơn thì chắc họ đã không cảm thấy bực bội như thế. Như
vậy kẻ ganh tị do không có tình yêu
thương nên đã không “vui với người vui, khóc với kẻ khóc”. Họ không coi các người
thợ vào làm việc sau họ là bạn,
nhưng là đối
thủ cạnh tranh. Họ coi sự may lành của kẻ khác lại là mối
họa cho mình.
3) ĐẶC ĐIỂM CỦA KẺ CÓ
LÒNG ĐỐ KỴ GANH GHÉT:
- Khó chịu khi thấy các bạn đồng trang lứa hơn
mình :
Đặc điểm thứ nhất là
cảm thấy khó chịu khi thấy bạn bè
hơn mình. Khi nghe bạn
thi đậu, có việc
làm mới lương
cao, được thăng chức, sắm được
xe mới hay tậu được nhà mới, … thì người có lòng ganh tị thay vì “vui với người vui” để gửi
lời chúc mừng, họ
lại cảm thấy bực bội khó chịu và tìm cách hạ giá trị của người đó.
Trái lại, khi thấy bạn
bè sa cơ thất bại,
thì người ganh tị
lại cảm thấy hả hê vui sướng !
- Hay nói xấu những ai hơn mình :
Do thói xấu đố kỵ làm mờ mắt, họ luôn
nghĩ mình hơn người
khác, nên khi thấy bạn
bè hơn mình, họ liền
đả kích nói xấu
kẻ đó để
thỏa mãn lòng ganh ghét. Nếu cần, họ sẵn sàng thêu dệt thêm bớt, “ít xít ra nhiều”, nhằm hạ giá trị của người kia xuống.
- Không thừa nhận thành công của người khác:
Người có lòng ganh tị thường không thừa nhận thành công của người khác, vì
nó đồng nghĩa với
sự thất bại của mình.
- Hay so bì với người khác:
Họ thường nói: “Tại sao người kia không tài
giỏi bằng tôi,
không thông minh như tôi mà được cấp trên đặt làm sếp của tôi?”
“Tại sao người kia không
xinh đẹp bằng tôi,
nhưng lại có
được một gia
đình hạnh phúc
như vậy?”
“Tại sao người kia có cha mẹ giàu sang, còn tôi lại không được như thế?”...
4. LÀM GÌ ĐỂ TRÁNH THÓI ĐỐ KỴ GANH GHÉT ?
- Mỗi người chúng ta, đều ít nhiều có tính xấu ganh ghét đố kỵ này. Điều cần làm là thay vì đố kỵ ganh tị với sự
thành công của người
khác, chúng ta hãy coi sự thành công của người khác là động lực thúc đẩy mình cố gắng vươn lên.
- « Tranh đua chứ không ganh đua » :
Trong sân đá banh, cầu thủ
cần cố gắng chạy nhanh hơn để giành
bóng, không được ngáng
chân hoặc thúc cùi chỏ hay nắm áo đối phương kéo lại để giành
bóng...
- Bao dung với tha nhân noi gương
Thiên Chúa: Cách ứng xử
của ông chủ trong
dụ ngôn chính là điều Chúa muốn
dạy hôm nay: Ngài mời
gọi những người thu thuế đang bị loại
trừ, những người tội lỗi đang bị
khinh dể được vào Nước Trời. Với những ai hay
so đo, tính toán với
tha nhân, Thiên Chúa sẽ
theo luật công bằng
mà đối xử với
họ; Còn đối
với những kẻ hay thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử xót thương.
- Chúa muốn chúng ta làm gì? : Mỗi người đều
được Thiên Chúa ban cho những nén vàng là những tài năng khác nhau... Trong
ngày phán xét Chúa không hỏi
chúng ta đã làm được những gì lớn lao, đã nắm
giữ những chức vụ gì ? Mà Ngài chỉ hỏi về đức tin thể
hiện qua hành động
mến Chúa yêu người
của chúng ta. Chính thái độ đối xử với tha nhân hôm nay thế nào mà chúng ta sẽ được thưởng
hay bị phạt trước tòa phán xét sau này.
4. THẢO LUẬN:
Ta nên làm gì để noi gương lòng nhân ái
bao dung của Thiên
Chúa: khi thấy bạn bè
thành công hơn mình: họ thi đậu, còn ta thi rớt,
họ hát hay và được nhiều người
mến mộ còn ta thì không ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY THIÊN CHÚA CHA ĐẦY LÒNG TỪ BI NHÂN HẬU.
Xin ban cho con trái tim quảng đại bao dung của
Chúa Giê-su và trái tim từ ái của Mẹ
Ma-ri-a.
Xin cho trái tim con không ích
kỷ để
khép lại cho riêng mình, nhưng biết mở
ra đón nhận tha nhân.
Xin cho trái tim con nên giống
trái tim tự bi nhân
hậu của Chúa Giê-su.
Xin cho lòng con vượt trên
mọi tranh chấp nhỏ nhen và mọi sự trả thù ti tiện.
Xin cho tâm hồn con luôn được bình an, không giận
hờn ganh ghét những
ai hơn con.
Xin giúp tình cảm của
con luôn được
quân bình: không quá vui khi thành công, cũng
chẳng quá buồn sầu
khi thất bại.
Xin cho con khiêm tốn và bình
tĩnh đón nhận
những phê bình xây dựng của tha nhân.
Xin cho trái tim con đủ lớn
để yêu thương hết mọi người,
kể cả những kẻ không ưa con và những
người con không ưa họ.
Xin cho vòng tay con luôn mở
rộng để đón nhận mọi người, không coi ai là
kẻ thù, nhưng biến thù thành bạn, bằng thái độ chân thành và hành động bác ái yêu thương.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|