HIỆP SỐNG
TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG
NIÊN A
Is 25,6-10a ; Pl 4,12-14.19-20 ; Mt 22,1-14
Y PHỤC DỰ TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt
22,1-14
(1) Đức Giê-su lại
dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng:
(2) “Nước Trời cũng giống như chuyện
một vua kia mở tiệc cưới cho con mình.
(3) Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các
quan khách đã được mời trước,
xin họ đến dự tiệc cưới, nhưng
họ không chịu đến. (4) Nhà vua lại sai những
đầy tớ khác đi, và dặn họ:
“Hãy thưa với quan khách đã được
mời rằng: “Này cỗ bàn, ta đã
dọn xong. Bò tơ và thú béo đã hạ
rồi. Mọi sự đã sẵn. Mơi quý
vị đến dự tiệc cưới !” (5) Nhưng
quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại
bỏ đi: Kẻ thì đi thăm trại, người
thi đi buôn. (6) Còn những kẻ khác lại
bắt các đầy tớ của vua mà sỉ
nhục và giết chết. (7) Nhà vua liền nổi
cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát
nhân ấy, và thiêu hủy thành phố của chúng.
(8) Rồi nhà vua bảo đầy tớ: “Tiệc cưới
đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ
đã được mời lại không xứng
đáng. (9) Vậy các ngươi đi ra các
ngả đường, gặp ai cũng mời
hết vào tiệc cưới. (10) Đầy tớ
liền đi ra các nẻo đường, gặp
ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp
cả lại, nên phòng tiệc cưới đã
đầy thực khách. (11) Bấy giờ nhà
vua tiến vào quan sát thực khách dự
tiệc, thấy ở đó có một người
không mặc y phục tiệc cưới (12) mới
hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn
vào đây mà lại không có y phục lễ cưới
?” Người ấy câm miệng không nói được
gì. (13) Bấy giờ, nhà vua bảo những
người phục dịch: “Trói chân tay nó lại,
quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở
đó người ta sẽ phải khóc lóc
nghiến răng ! (14) Vì kẻ được
gọi thì nhiều, mà người được
chọn thì ít”.
2. Ý CHÍNH: DỤ
NGÔN TIỆC CƯỚI
Đức Giê-su trình bày
dụ ngôn tiệc cưới, ám chỉ lịch sử
ơn cứu độ của Thiên Chúa qua hai giai
đoạn chính như sau: Đầu tiên Thiên Chúa
tuyển chọn và mời gọi dân riêng Ít-ra-en
gia nhập vào Nước Trời do Đấng
Thiên Sai thiết lập, nhưng họ đã từ
chối tình thương cứu độ của
Người. Tiếp
đến, Thiên Chúa mời gọi tất cả
các dân tộc gia nhập Nước Trời.
Tuy nhiên muốn được tham dự vào bàn
tiệc Nước Trời đời sau,
đòi người ta phải mặc y phục lễ
cưới, tức là phải có “lòng
ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”
do Chúa Giê-su rao giảng. Ai cố tình không mặc
y phục lễ cưới sẽ không được
vào dự tiệc Nước Trời.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Nước
Trời giống như chuyện một vua kia mở
tiệc cưới cho con mình: Thiên Chúa khai mở
bữa tiệc thời Thiên Sai bằng việc
cho Con Một Người xuống thế làm người
(x. Mt 24,1-12; Kh 19,9). Tuy dụ ngôn về tiệc cưới
của hoàng tử, nhưng lại đề cập
nhiều đến thái độ phải có của
các khách được mời đến
tham dự. + Nhà vua sai đầy tớ:
Đầy tớ ám chỉ các ngôn sứ
(x. ls 25,6). + Đi thỉnh các quan khách đã
được mời trước: Quan khách
ám chỉ dân Ít-ra-en được Thiên Chúa
ưu tuyển. + Nhưng họ không chịu đến:
Các đầu mục đã hướng dẫn
dân Ít-ra-en khinh thường lời mời
của Thiên Chúa.
- C 4-6: + Nhà vua lại
sai những đầy tớ khác đi:
Điều này cho thấy lòng khoan dung của Thiên
Chúa. Ngài luôn kiên nhẫn trước thái
độ bất trung ngỗ nghịch của Ít-ra-en
dân riêng của Ngài. + Nhưng quan khách không thèm
đếm xỉa tới, lại bỏ đi: Họ
không đếm xỉa tới lời mời vì
không tin vào các ngôn sứ do Thiên Chúa sai đến.
+ Kẻ thì đi thăm trại, người thì
đi buôn: Đi thăm trại hay đi buôn bán là
những lý do biện minh cho hành động
không đến tham dự bữa tiệc cưới, cho thấy dân ít-ra-en
đã coi trọng của cải vật chất và
các việc trần gian hơn lời hứa cừu
độ của Thiên Chúa. + Còn những kẻ
khác lại bắt các đầy tớ của vua mà
sỉ nhục và giết chết: Các đầu
mục đã xúi dân bắt bớ giết
hại các ngôn sứ là những gia nhân do
Thiên Chúa sai đến. Điều này cho thấy
tội bất trung của họ đã lên đến
tột cùng và đáng bị trừng phạt.
- C 7-8: + Nhà vua
liền nổi cơn thịnh nộ: Sự dửng
dưng, từ chối và còn giết hại các
ngôn sứ thời Cựu ước và
các Tông đồ thời Tân ước khiến
cho Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ. + Sai quân
đi tru diệt bọn sát nhân ấy: Sự cố
chấp chống lại tình thương cứu
độ, khiến dân Do Thái không còn xứng
đáng được hưởng sự
khoan dung nữa và đáng bị trừng
phạt. + Và thiêu hủy thành phố của chúng:
Việc thiêu hủy thành phố ám chỉ biến
cố thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy bình
địa vào năm 70 sau Công nguyên. Điều này
cho thấy Tin mừng Mát-thêu được
biên sọan vào sau năm 70, khi ấy tác giả đã được chứng kiến cảnh hoang
tàn đổ nát
của thành Giê-ru-sa-lem. + Những kẻ đã
được mời lại không xứng
đáng: Ơn cứu độ đã được
hứa ban cho dân Ít-ra-en, nhưng họ lại không
đáng được hưởng do thái
độ dửng dưng và từ chối Nước
Trời do Đức Giê-su thiết lập.
- C 9-10: + Vậy các
ngươi đi ra các ngả đường:
Nhắc lại lệnh của Đức Giê-su truyền
cho các môn đệ trước khi về trời:
“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ” (Mt 28,19). Ra các ngả đường
còn nói lên tính phổ quát của ơn cứu
độ như lời Đức Giê-su: “Từ
phương Đông phương Tây, nhiều người
sẽ đến dự tiệc cùng các tổ
phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước
Trời. Nhưng con cái Nước Trời
thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngòai,
ở đó người ta sẽ phải khóc
lóc nghiến răng” (Mt 8,11-12). + Gặp ai bất
luận xấu tốt cũng tập hợp cả lại:
Câu này cho thấy ý của Thiên Chúa là muốn
cho tất cả mọi người đều được
vào Nước Trời (x. Mt 9,13). + Phòng
tiệc cưới đã đầy thực
khách: Từ nay Hội thánh gồm đủ
mọi dân tộc và mọi thành phần tốt xấu
trong xã hội. Ở đây cũng nhắc lại
ý nghĩa của dụ ngôn Cỏ lùng (x. Mt
13,24-30) và Chiếc lưới (x. Mt 13,47-50).
- C 11-12: + Nhà vua
tiến vào quan sát khách dự tiệc: Sự
quan sát ám chỉ cuộc phán xét cuối cùng
của Đức Giê-su, Đấng được
Thiên Chúa tôn lên làm “Chúa” (x. Pl 2,6-11) và làm
“Vua” xét xử muôn dân (x. Mt 25,31-46). Tuy “Hội thánh
lữ hành” ở
trần gian còn bao gồm cả người tốt
lẫn kẻ xấu, nhưng “Hội thánh chiến
thắng” trên trời lại chỉ gồm những người đã trải qua cuộc phán xét
chung. Khi ấy chỉ những người có
đức tin, thể hiện qua lối sống khiêm tốn
phục vụ mới được tham dự
bàn tiệc Nước Trời. + Có một
người không mặc y phục lễ cưới:
Trong Thánh Kinh không chỗ nào đề cập
đến tục lệ chủ nhà sắm quần
áo cưới cho quan khách đến dự
tiệc mặc trước khi vào phòng tiệc
nhưng chỉ cần họ
ăn mặc lịch sự là đủ.
Y phục lễ cưới
ở đây ám chỉ chiếc áo
trắng chiến thắng (x. Kh 7,9b), áo chính
trực công minh (x. Is 61,10) và công chính (x. Mt
5,16.20), tượng trưng con người mới
công chính thánh thiện (x. Ep, 4,24), giống như
Hiền thê được trang điểm và được
mặc áo sáng chói tinh tuyền đi đón
Con Chiên (x. Kh 19,8). Tóm lại, y phục lễ cưới
chính là chiếc áo trắng tinh khi chịu phép rửa tội.
+ Người ấy câm miệng không nói được
gì: Người không mặc y phục lễ
cưới đã không thể biện minh cho thái
độ khinh thường chủ tiệc của mình.
- C 13-14: + Trói
chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối
tăm bên ngoài: Đây là những hình phạt
tượng trưng cho hỏa ngục, nơi dành
cho những kẻ sống bất chính và thù
ghét Thiên Chúa. Nơi đó họ sẽ phải khóc
lóc đau khổ và nghiến răng tủi hờn.
+ Kẻ được gọi thì nhiều mà
người được chọn thì ít:
Nhiều ít không phải về số lượng,
nhưng đúng hơn là sự non kém. Nên
câu này có thể được dịch lại
như sau: “Kẻ được gọi thì đông
hơn, và người được chọn
thì ít hơn”. Câu này lẽ ra được
đặt ngay sau dụ ngôn Tiệc Cưới. Vì
người được gọi thì rất
nhiều “chật ních phòng tiệc”, và chỉ
có người được mời trước
từ chối và “một người không
mặc áo cưới bị loại ra mà
thôi (x. Lc 13,22-30). Việc người được
gọi thì nhiều mà được chọn
thì ít không phải do Thiên Chúa không mời,
nhưng tại loài người đã cố tình
từ chối lời mời của Thiên Chúa,
hay vì không mặc áo cưới công chính
tinh tuyền, không sống giới răn yêu thương
của Chúa Giê-su
(x. Mt 3,8 ; 5,20 ; 7,21 ; 13,48 ; 21,32).
4. HỎI ĐÁP:
- Hỏi 1: So sánh
dụ ngôn Tiệc cưới trong hai Tin mừng Mát-thêu
(22,1-14) và Lu-ca (14,16-24), ta thấy Tin mừng Lu-ca
không nói đến việc ông vua phát hiện ra có một kẻ
không mặc áo cưới và trừng
phạt y. Vậy Tin mừng nào thuật lại
đúng hơn ?
ĐÁP:
Ngày nay một số nhà chú giải nghĩ
rằng: dụ ngôn Tiệc Cưới do Đức
Giê-su giảng thực ra đã chấm dứt
ngay sau khi vua cho mời những kẻ nghèo khó,
tàn tật mù què vào đầy phòng tiệc,
để thế chỗ cho những kẻ được
mời mà không đến (x. Lc 14,16-24; Mt 22,1-10). Còn
phần sau trong Tin mừng Mát-thêu (22,11-14) thực
ra là một dụ ngôn khác, là dụ ngôn “Áo
Cưới”, nhưng đã được
đặt liền sau dụ ngôn “Tiệc Cưới”.
- Hỏi 2: Ông vua
có bất công không khi phạt một người
khách không mặc y phục lễ cưới chỉ
vì bất ngờ
được mời,
nên không có thời
gian chuẩn bị trước.
Hơn nữa, do được mời ở ngã ba đường và bị
ép vào phòng tiệc, thì lấy đâu ra áo cưới
?
ĐÁP:
Những ai nhận đây là hai dụ ngôn được
ghép lại thành một thì sẽ không có thắc
mắc gì về vấn đề áo cưới,
vì ai cũng có thời giờ chuẩn bị
trước ở nhà. Tuy nhiên ngay cả trường
hợp được mời đột xuất
thì việc phạt người không mặc áo
cưới cũng không bất công. Vì tại sao
bao nhiêu người khác cũng được
mời bất ngờ như vậy mà vẫn
có thể mặc
y phục lễ cưới
? Hơn nữa,
khi bị hạch hỏi, người không mặc áo cưới
này lại làm thinh, không bào chữa gì được cho hành vi
của mình. Tuy nhiên, đây
chỉ là một câu chuyện dụ ngôn, nên cần quan tâm đến bài học dụ ngôn muốn dạy, hơn là để
ý đến các
chi tiết khác. Điều
dụ ngôn muốn dạy
là: Kẻ không mặc áo cưới là
kẻ cố tình không chịu sám hối và tin vào Tin Mừng, nên không đủ điều kiện vào dự tiệc, mà còn bị
quăng vào hỏa ngục đời đời.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Nhà
vua tiến vào quan sát khách dự tiệc,
thấy ở đó có một người
không mặc y phục lễ cưới, mới
hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn
vào đây mà lại không có y phục lễ cưới
?” Người ấy câm miệng không nói được
gì (Mt 22,11-12).
2. CÂU CHUYỆN:
1) HÃY HƯỚNG NHÌN LÊN TRỜI CAO:
Một con gà rừng
mẹ đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ trứng
của nó có một trứng
to của chim đại bàng. Khi đến ngày giờ, các quả trứng đều nở ra thành
con. Đại bàng con
nô đùa vui vẻ bên
các chú gà rừng như anh
chị em ruột trong gia đình gà rừng.
Một ngày kia, khi đang bới móc trong đống rác kiếm
ăn giun đất chung với đàn gà rừng, đại bàng con chợt thấy một con đại
bàng lớn bay lượn
trên không với dáng
vẻ oai phong đẹp mắt.
Cậu liền hỏi gà mẹ rằng:
- Mẹ ơi, sao bọn mình lại không bay lên cao như chim đại bàng trên trời kia hả mẹ ?
- Chúng ta không phải đại bàng nên không thể bay lên được con ạ !
- Thế chúng ta là ai hả
mẹ ? Đại bàng con hỏi tiếp.
- Chúng ta chỉ là loài gà rừng mà thôi !
Rồi vài ngày sau đó, khi đang khi bươn chải kiếm ăn trên
đống rác, đại bàng con lại thấy chim đại bàng
mẹ bay lượn trên
cao gọi cậu:
- Hãy bay lên cao với mẹ hỡi con yêu của ta ! Thế giới của
con là trời cao biển
rộng, chứ đâu phải đống rác nhơ bẩn dưới đó ! Mau bay
lên với mẹ đi con.
Đại bàng con cố đập cánh bay lên theo lời mẹ gọi, nhưng
bay được vài cái là lập tức bị rơi xuống đất giữa
tiếng cười chế nhạo của anh em gà rừng. Bọn chúng bảo đại bàng con rằng:
- Chú chỉ là loài gà rừng, làm sao bay lên cao được hả chú bé ?
Đại bàng con tự nhủ : Nếu ta chỉ là
gà rừng thì sao mẹ đại bàng trên
cao kia cứ gọi ta là
đại bàng con ?
Đàng khác, ta thấy bay lên
cao cũng đâu phải quá
khó ! Có lẽ tại ta chưa
tập thành thạo
đó thôi. Vậy bây
giờ ta thử bay thêm
lần nữa xem sao.
Thế là đại
bàng con đủ lông
đủ cánh đã
bay được lên
trời cao và cứ tiếp tục bay lên
mãi. Cậu bay theo sau đại
bàng mẹ tiến về
một phương trời mới. Lần đầu tiên
trong đời, đại
bàng con được
từ trên cao nhìn xuống
đất. Nó cảm
thấy lòng tràn ngập
niềm vui vẻ hạnh phúc.
Như đại bàng mẹ kiên nhẫn kêu gọi
đại bàng
con đừng nhìn trên mặt đất nhưng hãy ngước nhìn lên bầu trời
cao xanh và cố
gằng bay lên
đi theo bầy đàn, Thiên Chúa cũng luôn mời gọi
chúng ta loại
bỏ lòng “tham
sân si” để ước ao dự tiệc cưới
Nước Trời, là gia nhập vào Hội thánh đời này để
được hạnh phúc thiên đàng đời sau.
2) Y PHỤC NƯỚC TRỜI LÀ CUỘC SỐNG YÊU THƯƠNG
VÀ PHỤC VỤ
Để trả lời cho
những người muốn biết Nước
Trời ở đâu, Đức Giê-su đã
dạy: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở
giữa các ông” (Lc 17,21). Như vậy, mỗi gia
đình, cộng đoàn hay bất cứ tập
thể nào cũng có thể trở thành
thiên đàng hay hỏa ngục.
Có người kia nằm mơ thấy mình
được dự hai bữa
tiệc: một trên thiên đàng và một dưới hỏa ngục.
Anh ta đã nhận xét
sự khác biệt giữa hai bàn tiệc của hai nơi ấy
như sau:
Cả hai bàn tiệc trên
thiên đàng hay trong hỏa ngục đều đầy
thức ăn ngon, và mỗi người
đều được
phát một đôi
đũa. Có điều các đôi đũa lại dài quá khổ,
đến nỗi tuy người ăn có thể
gắp được đồ ăn trên bàn,
nhưng lại không sao đưa đồ ăn ấy vào miệng
mình. Trong bàn tiệc trên thiên đàng thì mọi
người đồng bàn đều có lòng vị
tha. Họ biết quan tâm
và muốn làm vui
lòng người khác, nên đã đã gắp
đồ ăn phục vụ
cho nhau, khiến mọi người đều
được ăn no và bầu khí bữa tiệc rất vui vẻ và bình
an. Ngược lại, tại bàn tiệc trong hỏa ngục thì
mọi người đồng bàn đều
ích kỷ, họ chỉ
nghĩ đến bản thân mà không nghĩ
đến người khác.
Do không thể tự gắp
đồ ăn vào miệng
mình, và do ganh tị
họ cũng không muốn cho người khác được ăn, khiến mọi người
đều đói và thù ghét nhau. Kết quả là “người thì bị đau khổ khóc lóc,
kẻ lại nghiến răng giận hờn”.
3) Y PHỤC TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI
CỦA AU-GÚT-TI-NÔ
LÀ SỰ HOÁN CẢI:
AU-GÚT-TI-NÔ
khi còn trai trẻ đã có một đời sống bê tha trụy lạc.
Nhưng đến năm 33 tuổi, Au-gút-ti-nô đã gặp
được giám
mục Am-brô-si-ô,
và anh đã được vị này hướng dẫn
đọc Lời Chúa hằng ngày. Đoạn văn đánh động tâm hồn Au-gút-ti-nô là lời thánh Phaolô khuyên các tín hữu
Rô-ma như sau:
“Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết
độ, không
ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đảng, không kình địch
ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô và đừng
lo tìm thoả
mãn những
đam mê xác thịt.”
(Rm 13, 13-14). Au-gút-ti-nô
có cảm tưởng như câu lời Chúa này dành riêng cho mình còn
được tấn phong làm giám mục. Sau cùng, giám mục Au-gút-ti-nô đã được
tôn phong làm tiến
sĩ thầy dạy của Hội Thánh.
Trong nghi thức ban bí tích rửa tội, vị chủ
sự trao cho người tân tòng tấm áo trắng và nhắn nhủ:
“Con đã trở
nên tạo
vật mới và
đã mặc lấy Chúa Kitô. Vậy con hãy nhận chiếc
áo trắng
nầy, hãy mang lấy
và giữ
nó tinh tuyền
mãi cho đến
khi ra trước toà Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, để cho
con được sống muôn đời”.
4) CHUẨN BỊ DỰ TIỆC ĐỜI
SAU BẰNG NĂNG DỰ TIỆC THÁNH THỂ ĐỜI NÀY:
Một bé gái bệnh
nặng, một hôm biết
mình khó qua khỏi, em gọi
cha mình lại để
nói chuyện. Người
cha này rất nguội
lạnh, lại hay ăn nhậu và không bao giờ đến nhà thờ. Em hỏi: - “Cha có thương
con không?”.
Người cha cảm động nói:
- “Sao con lại hỏi thế,
cha rất yêu con!”.
– “Con sắp xa cha rồi, con sắp về
với Chúa rồi!”.
– “Không! Con sẽ mạnh, cha thương con lắm!”.
Người cha ôm con khóc nức nở.
– “Con sẽ gặp Chúa, con yêu Chúa, nhưng
con cũng yêu cha, con không muốn
xa cha, cha có muốn gặp
lại con và sống mãi
bên con không?”
– Người cha nghẹn ngào đáp: -
“Có, con yêu!”.
– “Vậy cha hãy hứa
với con là cha sẽ
năng đi lễ nhà thờ nhé! Con muốn
được gặp lại cha trên Thiên Đàng”.
Người cha trả lời trong nước
mắt: - “Cha hứa!”.
- “Con vui lắm rồi, con hẹn sẽ gặp
lại cha nhé!”. Bé gái nhìn cha mỉm cười và sau đó ít phút, em đã nhắm mắt lìa đời.
Sau ngày an táng con gái thân yêu, cha em
đã giữ lời hứa
và trở thành một con chiên ngoan đạo, hằng ngày đến nhà thờ dự lễ và rước lễ sốt sắng. Ông
còn tình nguyện tham gia vào
ban phục vụ nhà
thờ. Cuối cùng
ông đã chết trong bình
an với niềm hy vọng
sớm được về thiên đàng để gặp cô con gái thân
yêu.
Muốn được vào dự tiệc Nước Trời,
người ta phải “mặc áo cưới” là đức tin và lòng sám hối, là lòng mến Chúa và năng kết hiệp với Người, rồi
khiêm tốn phục vụ
Người đang hiện thân nơi những người nghèo khổ và bất hạnh (x. Mt 25,34-36.40).
5) SỨC MẠNH LÂY LAN CỦA LÒNG BÁC ÁI CHIA SẺ:
Khi Mẹ
Tê-rê-sa Cal-cut-ta
đi ngang qua nhà một gia đình theo đạo
Hin-đu (Ấn Giáo) đã bị đói nhiều ngày. Mẹ
đã cầm
theo một ít gao
để cho gia đình ấy. Điều xảy
ra làm mẹ
kinh ngạc là:
Sau khi nhận được gạo, người
mẹ trong gia đình này đã chia đôi số gạo, sang chia sẻ
cho gia đình
hàng xóm.
Thấy
vậy, mẹ Tê-rê-sa
liền hỏi: “Chia cho người khác rồi thì bà còn lại
được bao nhiêu? Liệu có đủ cho gia đình nhà bà không?”. Mẹ
thật bất ngờ khi nghe người ấy nói: “Nhưng gia đình này
cũng giống như gia đình tôi, đã nhịn
đói trong nhiều
ngày rồi”.
Chính lòng quảng đại của Mẹ Tê-rê-sa đã có sức
lan truyền, để người vừa được
chia sẻ cơm bánh cũng biết quảng đại chia sẻ
cho tha nhân đồng
cảnh ngộ với mình.
3. SUY NIỆM:
1) THIÊN CHÚA BAN ƠN CỨU ĐỘ LOÀI NGƯỜI QUA HAI GIAI ĐOẠN:
Giai đoạn một: Thiên Chúa đã
sai các ngôn sứ đến với dân It-ra-en báo
tin về một Đấng
Thiên Sai sẽ đến
thiết lập một “Triều Đại của Thiên Chúa”, và mời
dân này gia nhập. Khi gần đến ngày đã
định, Thiên Chúa lại sai Gio-an Tẩy Giả là
vị tiền sứ
của Đấng Thiên Sai đến nhắc lại lời
mời gọi ấy như sau: “Anh em hãy sám hối,
vì Nước Trời đã đến gần”
(Mt 3,2). Nhưng dân Ít-ra-en vẫn tỏ thái độ thờ ơ
và vua Hê-rô-đê đã giết hại Gio-an. Về sau dân này còn hè nhau giết hại chính Người Con do Thiên Chúa sai
đến là Đức Giê-su.
Giai đoạn hai: Trước sự cứng
lòng của dân
Ít-ra-en đã từ chối
ơn cứu độ, Thiên Chúa đã mời mọi dân tộc khác vào dự
tiệc cưới Nước trời, qua lời Đức Giê-su
truyền cho các môn
đệ như sau: “Anh em
hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm phép rửa cho họ
nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Rồi nhờ ơn
Thánh Thần ban, các Tông đồ đã chu toàn sứ mạng loan báo Tin mừng
khắp muôn dân. Nhờ
Thánh Thần tác động
mà số người gia nhập vào Hội thánh
ngày gia tăng.
2) ĐÁP LẠI LỜI
MỜI GỌI CỦA
THIÊN CHÚA BẰNG CÁCH
NÀO ? :
a) Hãy luôn hướng lòng trí về những sự trên trời:
Chúng ta tránh chỉ lo toan tìm kiếm cơm áo vật chất, mà còn phải ý thức nhiệm vụ của mình
nhứ lời Thánh
Phao-lô dạy: ”Quê hương
chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng
mong đợi Đức
Giê-su Ki-tô từ trời
đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn
loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
Mỗi tối trước khi đi ngủ, chúng
ta hãy tự hỏi: Hiện giờ tấm áo
trắng rửa tội của tôi có còn tinh tuyền không ? Hôm nay tôi
đã sống giới răn mến Chúa yêu người
như thế nào ? Giả
như đêm nay Chúa gọi tôi về trình diện,
tôi có đủ điều kiện để được tham dự
bàn tiệc Nước
Trời hay không
?
b) Phải luôn mặc y phục lễ cưới:
- Y
phục lễ cưới là chiếc áo trắng
được trao ngày chịu phép Rửa tội: Đó là một tâm hồn
thanh sạch của những người được tẩy
trắng trong máu
Con Chiên. Chiếc áo trắng ấy được dệt bằng
sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải gìn giữ suốt
cả cuộc đời. Chiếc áo trắng ấy phải luôn tinh tuyền như
lời nhắn nhủ của Hội thánh trong lễ rửa
tội: “Con đã trở nên tạo vật
mới và đã
mặc lấy Ðức Ktiô. Chiếc áo trắng này là dấu
chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ
bảo và gương
lành của thân nhân giúp đỡ, con
hãy mang nó tinh tuyền
mãi cho đến
cõi trường
sinh.”
- Y phục lễ cưới là sự tôn trọng tha nhân, qua cách ăn mặc và lối sống yêu thương phục vụ: Thánh Phaolô đã nói đến các người phụ
nữ đi cầu nguyện hoặc nói tiên tri mà ăn mặc
bất xứng, không phù hợp với truyền thống (1 Cr
11,15), hoặc các
tín hữu đi tham dự tiệc Thánh Thể mà không chay tịnh,
cứ ăn uống say sưa và khinh dể kẻ nghèo (1Cr. 11, 21-22 và 27-29, 34).
- Y phục lễ cưới còn là
chu toàn sứ vụ loan Tin
Mừng để làm chứng cho Chúa:
+ Bằng việc cải thiện môi trường đang sống là
gia đình, khu xóm, trường
học, nhà máy, công sở…
ngày một nên an
toàn sạch đẹp hơn,
công bình nhân ái hơn… Hầu trở thành “Trời Mới Đất Mới” theo thánh ý Chúa.
+ Bằng lối sống khiêm hạ, yêu thương thăm viếng để chia sẻ cơm
áo tiền bạc cho
những người nghèo khổ, bệnh tật và bị bỏ rơi (x. Mt 25,34), tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin mừng
cho những người chưa
nhận biết tin yêu Chúa (x. 1 Cr 9,16).
4. THẢO LUẬN:
Bạn sẽ làm gì để biến đổi gia đình
hay cộng đoàn của bạn trở nên thiên đàng tình thương
ngay từ hôm nay ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. “Xin cho con
biết Chúa và xin cho con biết con”. Xin cho con biết
luôn quên mình để làm mọi việc vì lòng
yêu mến Chúa. Xin cho con biết khiêm hạ, luôn làm
việc để tôn vinh Thiên Chúa và góp phần cứu rỗi tha nhân. Ước
gì con biết hãm mình và luôn sống trong tình
thương của Chúa. Ước gì con biết
đón nhận tất cả những gì xảy
đến cho con và kiên trì vác thập giá mình hằng
ngày mà bước đi theo Chúa đến cùng.
Xin đừng để điều gì thuộc về trần gian kéo con lạc
xa Chúa. Xin thương xót con và giúp con gia
tăng lòng tin yêu Chúa, hầu sau này đáng
được Chúa đón nhận vào dự tiệc
Nước Trời đời đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|