HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG
NIÊN A
Xh 22,20-26; 1 Tx 1,5c-10; Mt 22,34-40
MẾN CHÚA THỂ HIỆN QUA HÀNH ĐỘNG YÊU NGƯỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt
22,34-40
(34) Khi nghe tin Đức
Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm
miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp
nhau lại. (35) Rồi một người thông luật
trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử
Người rằng: (36) “Thưa Thầy, trong sách
Luật Mô-sê, điều răn nào là điều
răn lớn nhất ?”. (37) Đức Giê-su đáp:
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên
Chúa của người hết lòng, hết linh
hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là
điều răn đứng đầu. (39) Còn
điều răn thứ hai, cũng giống điều
răn ấy, là: Ngươi phải yêu người
thân cận như chính mình. (40) Tất cả Luật
Mô-sê và các sách Ngôn sứ đều tùy
thuộc vào hai điều răn ấy”.
2. Ý CHÍNH:
Câu hỏi của người
thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu nêu ra với Đức
Giê-su để thử Người vốn là một
trong những vấn đề lớn mà các
Rá-bi Do Thái luôn bất đồng ý kiến và
không ngừng tranh cãi với nhau: “Trong sách Luật
Mô-sê thì điều răn nào là điều
răn lớn nhất ?” Nhưng điều họ cho
là khó thì trong Tin Mừng hôm nay, Đức
Giê-su đã giải đáp cách dễ dàng. Theo
Người thì toàn bộ sách Luật và
các Ngôn sứ đều tóm gọn trong hai
điều răn lớn nhất là mến Chúa
và yêu Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 34-35: + Đức
Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm
miệng: Trong dân Do Thái có nhiều phe nhóm
khác nhau. Phái Xa-đốc vì chỉ dựa
trên Luật thành văn là bộ sách Ngũ Thư,
nên nghĩ rằng không có chuyện kẻ chết
sống lại (x. Mt 22,23). Họ đã dựa trên
luật “thế huynh” (x. Đnl 25,5-10) để đặt
vấn đề với Đức Giê-su. Người
đã trả lời bằng hai điểm: Một
là khi sống lại, người ta sẽ sống
như các thiên thần (x. Mt 22,30). Hai là Người nhắc lại
lời Thiên Chúa
phán với
Mô-sê rằng Người là Thiên
Chúa của các tổ phụ, ngầm ám chỉ
các tổ phụ ấy vẫn đang sống với Người (x. Xh
3,6). Trước những bằng chứng
rút từ Thánh Kinh ấy, họ đuối lý
và đành phải câm miệng. + Thì những
người Pha-ri-sêu họp nhau lại: Họp nhau ở
đây nhằm đối phó với Đức
Giê-su. Sau này các đầu mục Do Thái cũng
họp nhau để tìm cách giết hại Người
(x. Mt 26,3-4). + Một người thông luật trong nhóm:
Đây là một kinh sư trong nhóm Pha-ri-sêu. Thời
Đức Giê-su có khoảng sáu ngàn người
thuộc nhóm Pha-ri-sêu hay Biệt Phái. Cũng như
nhóm Ét-sê-ni, nhóm Pha-ri-sêu thường kết
nạp những người có lòng đạo
đức muốn chống lại ảnh hưởng
ngoại giáo. Nhóm gồm các kinh sư, các
tiến sĩ Luật và cả tư tế nữa.
Họ tổ chức thành hội, nhằm giúp
nhau giữ đạo của cha ông và trung thành với Luật
Mô-sê. + để thử Người: Ở
đây nhóm Pha-ri-sêu nêu câu hỏi để đưa
Đức Giê-su vào thế bí, xem Người
sẽ giải quyết thế nào đối với
vấn đề nan giải, thường gây tranh cãi
giữa các ráp-bi với nhau.
- C 36-37: + Luật Mô-sê:
Luật hay “Tô-ra” trong tiếng Do Thái, ám chỉ giáo
huấn mặc khải của Thiên Chúa nhằm
hướng dẫn nếp sống của con người
về nhiều lãnh vực như: Luân lý, tổ
chức gia đình và xã hội, nghi thức
phụng tự, các thừa tác viên và các
điều kiện cử hành… Đây là toàn
bộ những điều luật ghi trong Ngũ Thư
và chi phối đời sống tôn giáo và
trần thế của dân It-ra-en. Luật Mô-sê gồm 613
điều khác nhau, trong đó có 246 điều
luật truyền và 365 điều luật cấm. +
Điều răn nào là điều răn lớn
nhất: Lớn nhất tức là quan trọng
nhất. Sở dĩ họ đặt câu hỏi
này với Đức Giê-su, phần vì không
nhất trí được với nhau, phần
vì muốn thử Đức Giê-su để
mong đặt người vào thế bí
không thể giải đáp được. + Ngươi
phải yêu mến Đức Chúa hết lòng,
hết linh hồn và hết trí khôn ngươi:
Lòng mến Chúa phải toàn diện, liên quan
đến trái tim, linh hồn và cả khối óc
của con người. Tình yêu ấy phải là
động lực thúc đẩy tất cả mọi
hoạt động tinh thần cũng như thể xác.
+ Đó là điều răn lớn nhất
và điều răn đứng đầu:
Đây là điều răn thứ nhất trong Thập
Giới (x. Đnl 6,5). Tầm mức quan trọng của
điều luật này không phải vì được
xếp đầu tiên, nhưng vì việc mến Chúa
là điều quan trọng bậc nhất. Vì thế
mỗi người Ít-ra-en đều phải
đọc đi đọc lại Luật này mỗi
ngày hai lần: lúc vừa thức giấc
cũng như trước khi nghỉ đêm.
- C 38-40: + Điều
răn thứ hai cũng giống điều thứ
nhất: Điều răn thứ hai tuy về lòng
yêu người, nhưng cũng quan trọng ngang với
điều răn thứ nhất về lòng mến
Chúa. Vì lòng yêu người phát xuất
từ lòng mến Chúa và cũng cần
thiết như lòng mến Chúa vậy. + Yêu người
thân cận: Đối với dân Ít-ra-en: người
thân cận là những người đồng
chủng tộc, cùng huyết thống. Nhưng Đức
Giê-su đã mở rộng tình yêu tha nhân đến
hết mọi người: Dù là Do Thái hay
dân ngoại, nô lệ hay tự do… và yêu cả kẻ
thù của mình nữa (x. Mt 5,43-48). + như
chính mình: Yêu kẻ khác giống như yêu bản
thân mình, là đặt mình vào hoàn
cảnh của người khác. Nói cách khác
yêu người bằng mình là: “Muốn người
ta làm gì cho mình, thì hãy làm cho người
ta như vậy” (x. Mt 7,12), và ngược lại
“Điều gì con không thích thì đừng
làm cho ai” (Tb 4,15). + Tất cả Luật Mô-sê và
các sách Ngôn sứ: Luật Mô-sê và các
sách Ngôn sứ là cách nói chỉ toàn
bộ Cựu Ước. Luật Mô-sê gồm có
năm cuốn sách trong bộ Ngũ Thư. Còn sách
các Ngôn sứ gồm hai loại: sách các
Ngôn sứ lớn như I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en,
Đa-ni-en và sách các Ngôn sứ nhỏ như
Ba-rúc, Hô-sê, Giô-en, A-mốt, Giô-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc,
Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a, Ma-la-khi. + đều tùy
thuộc vào hai điều răn ấy: Thánh ý
của Thiên Chúa biểu lộ qua các giới
răn, và qui về hai giới răn này là
“Mến Chúa” và “Yêu người”. Như vậy,
Đức Giê-su đã gắn liền điều
răn yêu người với điều răn mến
Chúa, bằng cách cho cả hai cùng quan trọng
như nhau, và tập trung tất cả lề luật
vào hai điều răn này. Từ nay, người
ta không cần phải lo lắng chu toàn tất cả
613 điều khoản, với các chi tiết khó
nhớ và khó áp dụng. Nhưng họ chỉ
cần giữ hai điều then chốt là “Mến
Chúa hết lòng hết sức” và “Yêu thương
tha nhân như chính mình”. Giữ hai điều
này là đã giữ trọn Lề Luật
và đã làm theo thánh ý Thiên Chúa rồi.
Sau này, Đức Giê-su còn thêm một điều
răn mới là: “Anh em hãy thương yêu nhau,
như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI 1: Thái
độ của nhóm Pha-ri-sêu đối với
Đức Giê-su thế nào?
ĐÁP:
Trong nhóm Pha-ri-sêu, một số
người có thiện cảm với Đức
Giê-su, nên đã mời Người đến
nhà (x. Lc 7,36;11,37), trong số đó cũng có
người có chức
vị thủ lãnh (x. Lc 14,1). Có người đã bảo vệ Người tránh khỏi
bị Hê-rô-đê
bắt (x. Lc 13,31). Ông Ni-cô-đê-mô một thành viên
của nhóm Pha-ri-sêu cũng đã bí mật
gặp Đức Giê-su vào ban đêm (x. Ga 3,1-2),
và sau đó đã công khai bênh vực Người
(x. Ga 7,50), và góp phần vào việc mai táng
Người như một môn đệ (x. Ga 19,39-40).
Ông Ga-ma-li-ên, một kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu trong
Thượng Hội Đồng có lần đã
lên tiếng bênh vực các Tông đồ (x. Cv
5,34-39). Tông đồ Phao-lô
trước khi theo Chúa đã từng là
một thành viên nhiệt thành nhất trong nhóm
Pha-ri-sêu (x. Cv 26,4-5). Tuy nhiên, đại đa số người
Pha-ri-sêu không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên
Sai, nên kịch liệt chống lại con người
và giáo lý của Người.
HỎI 2: Thái
độ của Đức Giê-su đối với
nhóm Pha-ri-sêu ra sao?
ĐÁP:
Về phần Đức
Giê-su, tuy nhiều lần nặng lời quở
trách nhóm Pha-ri-sêu về lối sống vụ Lề
Luật, giả đạo đức, vụ lợi,
nói mà không làm, kiêu căng, ưa xu nịnh,
khinh thường các tội nhân và dạy giáo
lý sai lạc (x. Mt 9,10-11;23,1-7;16,5.12)… Nhưng Người
công nhận họ siêng năng cầu nguyện, bố thí
và ăn chay (x. Mt 6,1-18); nhiệt tâm truyền giáo
(x. Mt 23,15), phần nào ăn ở công chính (x.
Mt 5,20), gắn bó với truyền thống của
cha ông (x. Mt 6,16), giữ Luật cách nghiêm nhặt
(x. Mt 23,23). Riêng Đức Giê-su đã đến không
nhằm bãi bỏ, nhưng kiện toàn luật
Mô-sê hay lời các
ngôn sứ nói chung (x. Mt 5,17-19), và Luật về
ngày hưu lễ, về sự nhơ uế nói
riêng (x Mt 12,2; 15,1-2).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn ngươi. Đó là
điều răn đứng đầu. Còn
điều răn thứ hai cũng giống điều
răn ấy là: Ngươi phải yêu người
thân cận như chính mình” (Mt 2,37-39).
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỨC MẠNH
BIẾN ĐỔI LÒNG
NGƯỜI CỦA TÌNH
THƯƠNG:
Có một cậu bé 7
tuổi bị mồ côi cha mẹ, nên được
ông nội đón về nhà nuôi. Ông này là
chủ một xí nghiệp sản xuất quy mô dây chuyền
lớn, có hằng trăm công nhân. Ông vốn là
một người tham lam và độc ác, thường
tỏ thái độ
hách dịch và hay tìm cách ăn chặn số tiền lương
ít ỏi của công nhân. Nhưng mỗi khi có
mặt cậu bé, ông ta lại tỏ thái độ nhân hậu và biết quan tâm đến những
người nghèo khổ. Nhất là ông luôn tận
tình yêu thương và chăm sóc cho cậu bé,
khiến cậu coi ông giống
như thần tượng. Cậu luôn miệng
khen những việc tốt ông làm, và cả những
việc xấu nhưng đã được cậu
cắt nghĩa lành là do động cơ tốt.
Cậu thường nói với ông như sau: “Nội
ơi, nội được nhiều người
yêu quý lắm phải không ? Cháu dám cá
là mọi người
đều yêu mến
nội thật nhiều, giống như cháu yêu
ông nội vậy !”
Chính tình yêu
chân thành của cậu bé khiến trái tim sơ cứng
của ông cụ dần dần hóa ra mềm mại, và
cuối cùng đã biến đổi ông trở
nên một người tốt lúc nào không hay.
Đúng như những đức tính tốt mà cậu bé
vẫn thường ca ngợi ông.
2) PHÉP LẠ CỦA LÒNG NHÂN ÁI :
Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta kể: "Hôm ấy,
có một người
khách lạ đến
thăm nhà dòng. Ông thấy
một nữ tu trong dòng vừa mang về tu viện một bệnh nhân bị bệnh nặng gần chết,
bị bỏ rơi bên ống cống, mình đầy giòi bọ hôi
thối. Thế mà, chị nữ tu này lại ngồi nhặt từng
con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản và
đầy sự cảm thông...
Rồi ông khách kia
đã đến xin gặp
mẹ Tê-rê-sa và nói: “Thưa mẹ, khi con đến đây, lòng con đầy thành kiến và thù ghét đạo công giáo. Nhưng bây giờ con sẽ ra về với
một tâm hồn hoàn
toàn đổi mới. Con
đã bắt đầu
tin vào Chúa, bởi vì
con đã được chứng
kiến tình yêu của
Chúa, biểu lộ cụ
thể qua hành động
yêu người của
một nữ tu trong dòng, qua cách thức sơ ấy thực hiện với
một người dơ bẩn đang hấp hối kia.
Bây giờ thì con
vững tin: “Thiên Chúa
là Tình Yêu”. Vì nếu không
có Chúa trong tâm hồn, thì
chắc là sơ sẽ không muốn chăm sóc bệnh nhân hôi hám và đáng thương
kia được".
Thực vậy, nếu ai không có
lòng mến Chúa thì cũng
không thể yêu người cách vô vụ lợi. Chúa Giê-su đã nêu
ra hai điều răn trọng
nhất là: " Ngươi phải yêu mến
Thiên Chúa hết lòng,
hết linh hồn, hết
trí khôn ngươi... và ngươi phải yêu người đồng loại như yêu
chính mình".
3) ĐỔI CHIẾC QUẦN CŨ LẤY
ĐƯỢC HAI LINH HỒN:
Một hôm, một
linh mục già của
thị trấn PI-CAR-DIE đang trên đường trở về nhà xứ, vừa đi đường
ngài vừa đọc
kinh nhật tụng trong sách. Có hai viên sĩ quan trẻ cũng đi chung đường
với vị linh mục này. Khi rảo bước ngang qua vị linh mục,
cả hai anh đều tỏ thái độ khinh dể cha đạo, vì
từ lâu họ đã bị mất đức tin và
không đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật. Trong câu chuyện, hai viên sĩ quan
liên tục khích bác các
tu sĩ, và hai anh đã đi nhanh hơn vị linh mục một đoạn
khá xa.
Chợt hai anh thấy một người hành khất ngồi bên vệ đường lên
tiếng xin: “Các
anh ơi, xin giúp đỡ
cho kẻ hèn này với.” Nghe
vậy, một trong hai viên sĩ quan trẻ lục túi tìm bạc lẻ để cho người
ăn xin, còn người
kia lại nói với bạn
mình rằng: “Ông
cha già hồi nãy gặp thế nào cũng sẽ đi ngang qua người
hành khất này. Tớ dám cá với cậu là ông ta sẽ chẳng thèm thí cho
lão ăn mày này một đồng
xu nào cho coi ! Cái bọn
tu sĩ đạo đức giả ấy thường
chỉ nói hay mà làm không hay. Vậy tụi mình nên núp vào sau bụi cây kia để xem ông cha kia sẽ hành xử như thế nào nhé”.
Ít phút sau, quả nhiên vị linh mục già cũng chậm rãi đi tới nơi. Khi nghe lời người
hành khất xin, ngài
dừng lại, đưa
tay lục hết túi trên đến túi dưới,
rồi ái ngại nói
với lão ăn
mày: “Ông bạn đáng
thương ơi, rất
tiếc là hôm nay ta chẳng
mang theo một đồng xu nào để có thể chia sẻ cho ông.”
Anh thứ nhất nghe tiếng vị linh
mục nói liền nói
thầm vào tai anh kia rằng: “Đấy, cậu
thấy chưa ? Tớ nói có sai đâu !” Đang
lúc đó, vị linh mục
trông thấy bộ quần
áo của lão
ăn mày đã bị rách
nát liền động lòng
thương, ông bảo lão
ăn mày: “Ông bạn hãy
chịu khó ngồi đợi ta một lát
nhé, ta sẽ quay lại ngay
!” Dứt lời, vị linh mục cũng chạy đến
chui vào bụi cây
gần bên hai anh sĩ
quan đã núp trước
đó. Sau khi loay hoay một
lúc, vị linh mục
đã quay lại chỗ
người ăn mày và trao cho lão ta chiếc quần dài đã được xếp gọn và
nói: “Đây, tôi xin biếu
ông chiếc quần dài
tôi đang mặc. Tuy nó
hơi cũ, nhưng nói chung vẫn còn tốt chán
! Ông không nên kể ra cho người
khác biết việc tôi
làm cho ông hôm nay, hầu tránh
cho tôi khỏi bị xấu
hổ”. Sau đó vị
linh mục sửa lại chiếc áo chùng thâm đang mặc cho ngay ngắn, tiếp tục
mở Các Giờ Kinh
Phụng Vụ và vừa
đi vừa đọc kinh.
Hôm sau, ngay từ sáng sớm đã có hai viên sĩ quan
đến bấm chuông
cổng nhà xứ từ sớm. Vị linh
mục già ra mở cửa
rồi mời hai người này vào phòng khách và họ đã thuật lại những điều họ
đã mắt thấy
tai nghe với thái độ thành tâm kính phục hành động
cao đẹp của linh mục. Khi ấy vị linh mục
chỉ biết ngẩn ngơ thốt lên với Chúa: “Ôi, con tạ ơn Chúa nhân lành. Chỉ với một chiếc quần
cũ cho một người nghèo mà Chúa lại quảng đại ban cho con tới
hai linh hồn sao ?”
(Theo Đức Ông
DE SÉGUR)
3. SUY NIỆM:
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện một luật sĩ đã
đến hỏi Đức
Giê-su: "Trong các giới răn điều nào trọng nhất?"(Mc 12,28). Đức
Giê-su đã dạy như
sau: "Điều răn đứng đầu là:
Nghe đây, hỡi Ít-ra-en,
Đức Chúa, Thiên
Chúa chúng ta, là Đức Chúa
duy nhất. Ngươi phải
yêu mến Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
hết lòng, hết
linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ
hai là: Ngươi phải
yêu người thân
cận như chính
mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó."
(Mc 12, 29-31). Như vậy
Đức Giê-su đã chính thức xác nhận
điều răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa Yêu Người là hai chiều kích của tình yêu và luôn đi đôi
với nhau. Người ta
không thể chỉ tuân
giữ điều này
mà bỏ qua điều kia,
như Thánh Gio-an viết: “Nếu
ai nói: Tôi yêu mến Thiên
Chúa mà lại ghét anh em
mình, người ấy là
kẻ nói dối; Vì ai không yêu thương
người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20). Và Ngài kết luận: “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng
phải yêu thương
anh em mình” (1 Ga 4,21).
1. BA BẬC MẾN CHÚA:
Lòng mến Chúa thường được phân
thành ba bậc : Một
là mến Chúa hình thức; Hai là mến Chúa bình thường và ba là mến
Chúa hết lòng hết
sức như sau:
+ Mến Chúa hình thức: Một số người
chỉ giữ những việc đạo như mười
điều răn, đi lễ Chúa Nhật, xưng tội
rước lễ… vì sợ bị mắc
tội nặng khi chết phải sa hỏa ngục. Còn những tội nhẹ
như: chửi
nhau, tục tĩu, ăn
cắp vặt,
gian dối, tham lam… thì
họ không quan tâm chừa
cải. Những
người này
giống như những
đứa trẻ
chỉ học hành hay làm các việc nhà vì
sợ cha mẹ rầy
la trừng phạt,
nên dễ dàng bỏ
đi chơi khi cha mẹ vắng nhà. Đó là những người “chỉ mến Chúa ngoài
môi miệng, còn lòng họ thì ở xa Chúa” giống như người Pha-ri-sêu được đề cập trong
Tin mừng hôm nay.
+ Mến Chúa bình thường: Một số người
khác cũng cố gắng sống đạo nghĩa
là tuân giữ các giới răn để
sau khi chết được
lên thiên đàng. Nhưng
vì lòng mến Chúa không nhiều, nên đến
khi phải hy sinh bản thân thì họ liền phạm tội giống như
các môn đệ trong cuộc khổ nạn của Chúa: Kẻ thì “bỏ
Thầy để chạy thoát thân”, kẻ khác “hèn
nhát chối không biết Thầy là ai”. Thậm chí
có kẻ còn phản bội “liên kết với kẻ thù để bán nộp
Thầy”.
+ Mến Chúa hết lòng: Chúng ta phải có đức “Mến Chúa hết
lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, nghĩa là
phải yêu mến Thiên Chúa hơn mọi người
và mọi sự khác trên đời. Chúa
Giê-su cũng đòi môn đệ phải yêu Thầy hơn
yêu cha mẹ và con cái (x. Mt 10,37-39), và nếu cần
phải sẵn sàng hy sinh cả mạng sống
để chứng tỏ lòng mến Thầy (x. Ga 15,13). Thánh Phao-lô đã
đạt tới lòng
mến như thế khi viết
: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình
yêu Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn
khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ,
gươm giáo ?” (Rm 8,35). Mỗi người chúng ta hãy xin ơn Thánh Thần
giúp ta yêu mến Chúa như vậy. Thánh Au-Gút-ti-nô đã khuyên
các tín hữu : “Hãy yêu
đi, rồi muốn làm
gì thì làm” (Ama et fac quod vis).
2. MẾN CHÚA HẾT LÒNG NGHĨA LÀ GÌ ?
:
- Người ta thường nói: “Có
đi có lại mới toại
lòng nhau”. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chúng ta phải biết đáp lại tình yêu của Thiên Chúa bằng nhiều cách như: Tuân
giữ các giới răn của Chúa;
năng đọc và
suy niệm Lời Chúa;
năng cầu nguyện,
tham dự thánh lễ
và chịu các bí
tích, chu toàn sứ vụ
loan báo Tin Mừng
để đưa nhiều người về làm
con cái Thiên Chúa...
- Hãy làm việc thờ phượng Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn
và hết sức lực của
chúng ta. Có nghĩa là phải đặt Chúa lên chỗ nhất cuộc đời mình, trên tất cả mọi thứ tình
yêu dành cho cha mẹ, vợ
chồng, anh chị em, trên cả của cải, chức quyền danh vọng và
mọi thứ khác như
lời Chúa
Giê-su: "Ai yêu cha yêu mẹ
hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không
vác thập giá mình mà
theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt
10,37-38).
- Rất có thể chúng
ta đã yêu mến Chúa
nhưng chưa yêu hết lòng,
hết sức, trên hết mọi sự, khi chúng
ta chỉ dành cho Chúa một chỗ nhỏ bé
trong tâm hồn mình. Chẳng hạn chúng ta chỉ mến Chúa những khi được bình
an. Còn khi gặp phải thử
thách đau khổ, chúng
ta lại dễ dàng bỏ Chúa để tìm kiếm danh vọng lợi lộc thú
vui, giống như tông
đồ Giu-đa đã
bán Thầy với giá
30 quan tiền. Mỗi ngày
trước khi đi ngủ,
mỗi người hãy dành ra ít phút để xét xem hôm nay mình đã mến Chúa thế nào? Rồi cầu nguyện dốc quyết
sẽ làm mọi sự
để biểu lộ lòng mến Chúa như Thánh Phao-lô đã khẳng định: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân,
khốn khổ, đói
rách, hiểm nguy, bắt bớ,
gươm giáo ? ” (Rm 8,35).
3. YÊU NGƯỜI NHƯ YÊU MÌNH LÀ
GÌ ? :
- Về mặt tiêu cực, tình yêu tha nhân là tránh làm
cho tha nhân những gì
mình không muốn, như Tô-bi-a
cha đã khuyên Tô-bi-a con : “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác” (Tb 4,15a), và Đức Khổng Tử cũng khuyên đệ tử: « Kỷ sở bất dục, vật
thi ư nhân- Điều
mình không muốn thì
đừng làm cho kẻ khác ». Về mặt tích cực, hãy làm cho người khác những gì mình muốn người khác làm cho
mình, như Đức Giê-su
đã dạy: “Vậy tất
cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng
hãy làm cho người ta, vì
Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
- Để thực hiện giới răn
Yêu Người, trước
hết, cần phải yêu thương những thành viên trong gia đình như
: Ông bà, cha mẹ, vợ
chồng, con cái, anh chị
em ruột thịt… Sau đó, phải yêu thương những người thân cận như : Bạn bè, làng xóm láng giềng, những người chúng
ta gặp gỡ hằng
ngày. Từ đó,
chúng ta mới có thể yêu thương mọi người xa lạ, yêu
cả kẻ đang thù
ghét làm hại chúng ta.
Bởi vì, nếu không yêu thương những người có liên
hệ với chúng ta
thì làm sao có thể yêu
thương những người
xa lạ, yêu thương cả kẻ thù của
mình như lời Chúa dạy (x. Lc 6,27), và theo gương
Chúa đã xin Chúa Cha tha thứ
cho những kẻ thù ghét bách hại mình: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc
23,34). Noi gương Chúa, nhiều vị thánh cũng đã tha thứ cho kẻ làm hại mình, như thánh Giáo Hoàng
Gio-an Phao-lô II đã vào nhà tù để thăm hỏi kẻ ám sát mình; thánh nữ Ma-ri-a Go-ret-ti cũng sẵn
sàng tha thứ cho kẻ
giết mình.
4. THỰC HÀNH TÌNH MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI THẾ NÀO ?
- Yêu thương cụ thể là hy sinh mạng sống cho tha nhân:
Chúa Giê-su đã hy sinh cuộc
đời để cứu độ nhân loại bằng cách sẵn sàng chịu chết trên cây thập giá để đền tội thay cho nhân
loại. Nhiều vị thánh
cũng đã hy sinh phục
vụ cho người nghèo khổ như Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta, hay đã tình
nguyện chịu chết
thay cho một bạn tù không quen biết như thánh Ma-xi-mi-li-a-nô
Kôn-bê.
- Yêu thương là thăm viếng chia sẻ và khiêm tốn phục vụ tha nhân:
Đến ngày chung thẩm, Thẩm phán Giê-su sẽ dựa vào tiêu chuẩn này để phán xét nhân loại: Yêu thương chia sẻ và phục vụ cho những kẻ nghèo
hèn là giúp đỡ chính
Chúa: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta
khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ,
các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi
đã cho mặc; Ta đau yếu,
các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”(Mt 25, 35-36). Ngược
lại, những ai không chia sẻ phục vụ những kẻ bé mọn là đã không phục vụ chính Chúa nên sẽ bị loại khỏi Nước
Trời và sẽ bị
phạt trong lửa hỏa ngục đời đời,
chung số phận với ma quỷ và những kẻ theo phe của chúng
(x. Mt 25, 42-43).
4. THẢO LUẬN:
Các tín hữu chúng ta cần thực hành thế nào lời dạy của Chúa Giê-su:
“Tất cả những gì anh em muốn người
ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy
làm cho người ta” (Mt 7,12) ?
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Ngày
nay Chúa cũng muốn chúng con mở rộng vòng
tay thân ái với hết
mọi người,
nhất là những người nghèo khổ bệnh tật và bất hạnh. Tuy nhiên chúng
con chỉ có thể làm được điều này nếu
chúng con có lòng mến Chúa,
và sống gắn
bó mật thiết với
Chúa. Ước
gì khi nhìn lên thánh giá, chúng con cảm nghiệm được
tình thương tột đỉnh của Chúa,
đã hy sinh chịu chết đền tội thay và đã sống lại để trả lại sự sống
đời đời cho chúng con. Hôm nay Chúa mời
gọi chúng con noi gương Chúa để giang tay cầu nguyện kết hiệp với
Chúa, rồi nắm
tay nhau để xây dựng
môi trường sống của
chúng con là gia đình, khu xóm, trường học, xưởng máy,
công sở… ngày một công bình nhân ái hơn
và an bình hạnh phúc
hơn.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|