HỌC HỎI
PHÚC ÂM CHÚA NHẬT
34 THƯỜNG NIÊN NĂM A. LỄ CHÚA KITÔ VUA Mt 25,31-46
·
Tìm những
điểm giống nhau giữa Mt 25,31-33 với Mt 16,27;
19,28; 24,30. Con Người đến trong vinh quang khi nào và
để làm gì?
·
Đọc Mt 25,32-33. “Các
dân thiên hạ” là ai? Xem Mt 24,14; 28,19. Chiên và dê tượng trưng
cho ai? Đứng bên phải và đứng bên trái có khác nhau
không? Đọc
1 Vua 2,19; Thánh vịnh
110,1.
·
Đọc Mt 25,34.
“Đức Vua” ở đây là ai? Đức Vua đến
làm nhiệm vụ gì?
·
So sánh hai câu nói của
Đức Vua ở Mt 25,34 và 25,41. Tìm những điểm
ngược nhau.
·
Đọc Mt 25,35-36.
Đức Vua bảo mình đã ở trong 6 hoàn cảnh khốn
khó nào?
·
Đọc Mt 25,37-39. Tại
sao “những người công chính” lại ngạc nhiên khi
Đức Vua nói?
·
Đọc
Mt 25,40.45. Tại sao hai câu này là những câu rất quan
trọng cho đời sống kitô hữu?
·
“Người
anh em bé nhỏ
nhất này của
Ta” là ai? Xem Mt
12,48-49; 28,10; 18,6.10.14; 10,42; Ga 20,17.
GỢI Ý SUY NIỆM: Nếu
hôm nay, bạn
nghe Đức Giêsu
nói Mt 25,35-36.42-43, điều gì có thể làm bạn rất
ngạc nhiên? Tại
sao bài Tin Mừng
này được
Giáo hội
chọn đọc trong lễ Chúa Kitô Vua?
Một người tuy không biết Chúa, nhưng giúp đỡ
các môn đệ
của Chúa, thì
có thể được cứu rỗi không?
PHẦN TRẢ LỜI
·
Qua Mátthêu 25,31-33, Đức
Giêsu cho thấy
một điều mà chúng ta phải tin, nằm trong Kinh Tin kính. Đó là việc
Ngài sẽ
“đến trong vinh quang” để phán xét nhân loại
vào ngày tận
thế. Đức Giêsu đã đến lần đầu như
một em thơ yếu đuối. Ngài sẽ
đến lần cuối như một vị Thẩm phán đầy quyền
năng để xét
xử kẻ sống và kẻ chết. Tin Mừng Mátthêu nhiều lần
nói đến
biến cố cuối cùng và quan trọng này (Mt 16,27; 19,28; 24,30;
25,31-33), biến cố mà chúng ta tin chắc sẽ xảy ra
trong tương lai. Trong các câu trích dẫn trên đây, Đức
Giêsu luôn nhận
mình là “Con Người”
sẽ đến “trong vinh quang”, có các “thiên sứ” theo
hầu (Mt 16,27; 24,31; 25,31). Ngài đến để thưởng
phạt (Mt 16,27), để xét xử các chi tộc Ítraen (Mt 19,28), để
“tập hợp những kẻ được tuyển chọn”
(Mt 24,31).
·
Lối nói “các dân thiên hạ”
ở Mt 25,32, nguyên
văn là “mọi dân tộc” (panta ta ethnê). “Các dân tộc”
(ta ethnê) là từ
thường được Mátthêu dùng để chỉ dân ngoại (Mt
4,15; 5,47; 20,25; 24,9…). Tuy nhiên, trong một số trường hợp,
từ này cũng
bao gồm cả người Do-thái nữa (Mt
24,14; 28,19). Ở Mt 25,32, “các dân thiên hạ” để chỉ mọi
dân tộc
trên trần
gian. Trong dụ ngôn
này, Đức Giêsu “tách biệt chiên với dê”. Chiên tượng
trưng cho người tốt, dê tượng trưng cho người
xấu. Thật ra, người Do-thái thường nuôi chiên chung với
dê, chỉ
tách chúng vào ban
đêm hay khi lấy sữa. Dê cần chỗ
ngủ ấm hơn, còn chiên thích ngủ ngoài trời. Ở
chỗ khác, Ngài
phân biệt lúa với cỏ lùng, cá tốt với
cá xấu
(Mt 13,24-30.47-50). Đối với người Do-thái, bên phải luôn được
coi là chỗ
danh dự (1 Vua 2,19; Tv 110,1). Ở đây bên phải là chỗ những
người được thưởng, bên trái là chỗ những
người bị phạt.
·
Trong Mt 25,34 hình ảnh
“Đức Vua” xuất hiện thay cho nhìn ảnh
“Con Người” ở Mt 25,31. Trong Tin Mừng Mátthêu, Đức
Giêsu là Đấng
Mêsia mà người
Do-thái mong đợi.
Đấng Mêsia
này là một vị Vua, con của Vua Đavít (Mt 2,2; x. Lc 1,32-33). Cũng
như “Con Người”, “Đức Vua” chính là Đức Giêsu sẽ
đến lần thứ hai vào ngày quang lâm, để phán xét mọi dân tộc trên mặt
đất. Ngài
đã loan báo về Nước Trời lúc ban đầu (Mt
3,2), bây giờ
Ngài đến
để ban Vương Quốc ấy (Mt 25,34).
·
Hai câu Mt 25,34 và Mt 25,41
có nhưng điểm ngược nhau khi
Vua nói với
những người đứng ở bên phải hay
bên trái. Những
người đứng bên phải được gọi
là “những
kẻ được Cha Ta chúc phúc”; họ được mời
“đến để thừa hưởng Vương Quốc
đã được
chuẩn bị cho họ từ thuở tạo thiên lập
địa.” Còn
những người bên trái là “những kẻ bị nguyền
rủa” nghĩa là
bị Thiên
Chúa nguyền rủa; họ bị “đi cho khuất
mắt Ta, mà vào
lửa đời đời
đã được
chuẩn bị cho tên Quỷ Dữ và các thần sứ của nó.”
·
Qua câu Mt 25,35-36, Đức
Vua đã cho biết
Ngài đã trải
qua sáu hoàn cảnh
khốn khó như
sau: đói, khát, là khách lạ (Rm 12,13), trần truồng
(Đnl 15,11), đau yếu, bị ở tù (Cl 4,18). Hai câu này hẳn
làm chúng ta ngạc
nhiên, vì chuyện
Đức Vua phải trải qua những cảnh ngộ
như thế là
không thể tin được. Hơn thế nữa,
Đức Vua còn
cho biết Ngài đã nhận được sự
giúp đỡ
cần thiết trong từng trường hợp bởi những
người đứng bên phải. Sáu hoàn cảnh trên đây là những
trường hợp thông thường cần đến sự giúp đỡ. Làm việc bác ái cho những người
có hoàn cảnh
trên đây là một
đòi hỏi
đối với những ai bắt đầu sống
tinh thần Bài
Giảng trên
Núi.
·
Những người
công chính nghe những
lời của Đức Vua với sự ngạc nhiên sững sờ
(Mt 25,37-39). Lập tức họ đặt câu hỏi cho
Đức Vua, vì
họ không rõ
“khi nào” (pote) họ đã làm những điều đó cho Ngài. Họ không hề nhớ
có lần
nào Đức
Vua đã gặp
cơn quẫn bách
và họ đã ra tay trợ giúp.
·
Hai câu Mt 25,40.45 là hai câu
quan trọng cho đời sống kitô hữu.
Đức Giêsu
bắt đầu hai câu này một cách long trọng:
“Ta bảo thật các ngươi…” Ngài khẳng định:
“khi các ngươi
làm những điều ấy cho một trong những
người anh em bé
mọn nhất của Ta đây, là các người làm cho chính Ta.” Như thế
Đức Giêsu
đã đồng hóa mình với “những người
anh em bé mọn
nhất” của Ngài.
Ai làm cho họ là làm cho Ngài, ai không làm cho họ là không làm cho Ngài. Đức
Vua Giêsu thì không
ai gặp, nhưng anh em khốn khổ của
Ngài thì chúng ta gặp
hoài trong cuộc
sống. Ơn cứu độ chúng ta dựa vào thái độ
của chúng ta
đối với những anh chị em này. Chúng ta sẽ
được vào
hưởng Nước Trời hay bị trầm
luân trong lửa
đời đời tùy theo cách cư xử của chúng ta đối với
họ.
·
Có nhiều
cách hiểu
về lối nói:
“người anh em bé mọn nhất này của Ta.”
Đức Giêsu
coi những người thi hành ý muốn của
Cha là anh chị
em của Ngài (Mt
12,48-49). Ngài cũng coi các môn đệ là anh em (Ga 15,15; 20,17). Những
người bé mọn
(mikros) là những
người đang tin vào Ngài (Mt 18,6.10.14), là môn đệ
của Ngài (Mt
10,42). Dựa trên những trích dẫn trên đây, ta có thể
nói “người
anh em bé mọn
nhất (elakhístoi)
này của Ta” (Mt 25,40) là một kitô hữu, một
người không
có vai vế trong xã hội hay Giáo Hội, một
người môn
đệ được Đức Giêsu sai đến
trong thế gian. Thái
độ bác ái, phục vụ đối với họ
sẽ ảnh hưởng trên phần rỗi đời
đời của mọi người và từng người,
vì giúp họ
là giúp chính Đức
Giêsu.
|