Chết rồi sống – Lm. Trịnh Ngọc Danh
Chết là một trong bốn nỗi khổ
của kiếp sống con người: Sinh, bệnh, lão,
tử. Ai cũng muốn sống lâu, sống
trường thọ; nhưng ước vọng ấy
cũng chỉ là ước vọng. Chết
là số phận mà ai ai cũng phải một lần
đi qua.
Có người chết vì tuổi già, có
người chết vì bệnh hoạn, chết vì tại
nạn, chết vì chiến tranh… Không ai muốn chết và
cũng không ai hay biết được giờ nào mình
phải ra đi. Nhưng có những cái
chết làm bàng hoàng người sống, mang nhiều
nỗi nhớ thương, đó là cái chết vào tuổi
thanh xuân, khi cuộc sống mới bắt đầu
chớm nở.
Phải chết đi mà lại
được sống lại, thật là một niềm
vui khôn tả đối với người chết và
người thân đang sống. Hôm nay
chúng ta được nghe thuật lại hai trường
hợp chết đi sống lại của hai
người trẻ tuổi.
Sau khi làm phép lạ cho hũ bột không
vơi, vò dầu không cạn đủ cho hai mẹ con bà
goá ở Xarépta và cho mình sống lâu ngày, tiên tri Êlia
được tạm trú tại nhà bà goá. Thế
rồi bất ngờ, con bà ngã bệnh và chết. Bà khóc lóc trách móc Êlia đã mang cái xui xẻo
đến cho bà. Êlia bồng lấy đứa
trẻ bà đang ẵm trong tay, đem
lên phòng trên chỗ ông ở và đặt nó nằm lên
giường. Ông nằm lên trên đứa trẻ ba lần
và kêu cầu: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin
cho hồn viá đứa trẻ này lại về với
nó!” và Thiên Chúa đã nghe lời ông kêu cầu. Đứa
trẻ đã sống lại. Đó là
chuyện xảy ra trong thời Cựu Ước.
Vào thời Tân Ước, thánh sử Luca
lại thuật lại một việc sống lại khác
như sau: Chúa Giêsu cùng các môn đệ và đám đông
đi đến thành Naim. Khi gần
đến cửa thành, thì gặp người ta đang
khiêng một người chết đi chôn; người
chết là con trai duy nhất của một bà goá.
Thấy bà khóc thảm thiết, Chúa Giêsu chạnh lòng
thương; Ngài tiến lại gần, sờ vào quan tài và
nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi
dậy!” Chàng thanh niên liền ngồi lên và
bắt đầu nói.
Cả hai người chết
đều là những người chết trẻ, lại
là những người con duy nhất của những bá
góa. Con là niềm vui và hy vọng cho tương lai
của hai bà trong lúc tuổi già. Thế mà những
đứa con duy nhất của họ đã ra đi. Còn
nỗi buồn nào hơn nỗi buồn mất đứa
con yêu dấu của mình!
Êlia không trực tiếp làm cho
người chết sống lại. Ông
phải kêu cầu vào quyền năng của Thiên Chúa; còn
Chúa Giêsu là Đấng có quyền lực trên sự sống
và sự chết, trên thân xác và linh hồn, Ngài đã ra
lệnh cho người chết sống lại.
Trong trường hợp đứa bé
của bà góa ở Xarépta sống lại, có một
điểm chúng ta cần lưu ý, đó là lời cầu
xin của Êlia: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con,
xin cho hồn viá đứa trẻ này lại về với
nó!”
Đứa trẻ của con bà góa ở
Xarépta đã chết. Linh hồn đã lià
khỏi xác. Tiên tri Êlia đã ba lần nằm lên
đứa bé đã chết để truyền sinh khí cho
nó, nhưng sinh khí ấy cũng chưa đủ
để làm cho đứa bé sống lại; ông đã
phải xin Thiên Chúa cho thần khí của đứa trẻ
trở lại với thân xác. Hồn trở
về với xác và đứa trẻ đã sống
lại.
Như thế, chúng ta có thể xác tín rằng
con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Con
người là một thực thể đơn nhất
gồm hồn và xác, vừa thể xác vừa tinh thần:
“Thiên Chúa lấy đất sét nặn ra con người,
thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở nên
một sinh vật” (St. 2:7). Linh hồn là
sự sống, là sự toàn diện, là cái thâm sâu nhất
của con người, là cái giá trị nhất nơi con
người; nhờ đó con người là hình ảnh
của Thiên Chúa cách đặc biệt: linh hồn là nguyên
lý thần linh nơi con người. Linh
hồn bất tử. Thân xác chết,
nhưng linh hồn vẫn sống.
Nhưng đứa trẻ kia,
chàng thanh niên nọ, hay người đầy tớ
của người sĩ quan kia hay ông Lagiarô, Chúa cho họ
sống lại là vì lòng xót thương nỗi đau
khổ của người thân đang sống. Họ được sống lại, nhưng
rồi cũng phải chết. Chết hai lần!
Sinh ký tử quy. Con
người phải chết, đó là điều tự
nhiên.
Chết là chấm đứt
khoảng thời gian chúng ta có mặt trên trần thế.
Trong khoảng thời gian ấy, con người thay
đổi, già đi rồi chết, bệnh hoạn
rồi chết, tai nạn rồi
chết…không ai biết được cái chết sẽ
đến lúc nào.
Nhờ cái chết, chúng ta
biết thân phận mình có hạn, nhưng với con
mắt đức tin, chết là linh hồn lià khỏi xác.
chết là ra đi, chết là trở
về để chờ ngày phục sinh cùng với thân xác.
Chết là kết thúc cuộc lữ hành trần thế,
kết thúc thời gian Thiên Chúa gia ân và thương xót
để chúng ta sống cuộc đời trần
thế theo ý Chúa và quyết định
số phận tối hậu của mình. Muốn
được phục sinh với Đức Kitô, chúng ta
cũng phải chết với Ngài.
Chết không phải là sự đau buồn
mất mát, nhưng là một niềm mong đợi như
thánh Phaolô đã nói: “Ao ước của tôi là ra đi
để được ở với Đức Kito”.( Pl.
1:23); đối với thánh nhân: “Sống là Đức Kitô
và chết là một mối lợi” (Pl 1: 21) và thánh Têrêxa Hài
Đồng Giêsu, trước những giây phút cuối cùng
của cuộc sống cũng đã nói: “Tôi không chết,
nhưng đang bước vào cuộc sống”.
Khi chết, linh hồn lià
khỏi xác. Thân xác lâm cảnh hư nát
trong khi linh hồn đến gặp Thiên Chúa.
Bất cứ cảnh tang chế nào cũng
đau buồn. Là những người
đang sống, chúng ta khóc thương cho người thân
đã chết. Đau buồn
trước mất mát của người thân yêu là
điều tốt và cần thiết; nhưng trong cảnh
đau thương ấy lại là một niềm vui cho người
quá cố. Đức tin là một sự an ủi và nâng đỡ người
sống trong lúc có tang chế, nó làm cho chúng ta đau buồn
trong niềm hy vọng sẽ gặp lại những
người thân yêu. Họ ra đi để
trở về với sự sống vĩnh cửu. Họ chết nhưng lại không chết. Họ chết về thân xác nhưng linh hồn
vẫn sống. Họ chỉ thay
đổi thế giới. Họ không
trở lại với chúng ta nhưng rồi chúng ta sẽ
đi gặp họ. Những
người chết là những người ra đi
trước chúng ta. Khóc thương
người chết là khóc thương cho số phận
linh hồn của họ không biết thế nào sau cái
chết hơn là cho thân xác. Cầu
nguyện cho các linh hồn là chúng sống liên kết
với họ.
Đứa con của vua Đavít với
vợ ông Urigia bị bệnh nặng. Vua Đavít cầu
khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn
chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì
nằm dưới đất. Các kỳ mục trong nhà
của vua nài nỉ xin vua trổi dậy, nhưng vua không
chịu và cũng không ăn uống chút
gì với họ. Đến ngày thứ bảy, đứa
bé chết. Triều thần vua Đavít sợ không dám báo cho
vua biết đứa bé đã chết, vì họ bảo nhau:
“Khi đứa trẻ còn sống, chúng ta đã nói với
đức vua, nhưng ngài không nghe. Bây giờ làm thế nào
để nói với ngài là đứa bé đã chết? Hẳn ngài sẽ làm liều!” Thấy
triều thần thầm thì với nhau, vua Đavít hiểu
là đứa trẻ đã chết. Vua Đavít hỏi
triều thần: “Có phải đứa bé chết rồi
không?” Họ thưa: “Vâng, chết rồi!”.
Bấy giờ vua Đavít từ dưới
đất trỗi dậy, tắm rửa, xức dầu thơm, thay quần áo; rồi vua vào Nhà
Đức Chúa mà phủ phục. Trở
về nhà, vua yêu cầu người ta dọn bữa và vua
đã ăn. Triều thần nói với vua: “Ngài làm gì
vậy? Khi đứa bé còn sống, thì ngài ăn
chay và khóc lóc vì nó. Khi đứa bé chết rồi, thì ngài
lại trỗi dậy và dùng bữa!” Vua trả lời:
“Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc, vì ta
tự bảo: Biết đâu Đức Chúa sẽ
thương ta và đứa bé sẽ sống! Bây giờ nó
chết rồi, ta ăn chay làm gì? Hỏi rằng ta còn có thể làm cho nó trở
lại được không? Ta đi
đến với nó, chứ nó không trở lại với
ta”. ( 2Sm, 12: 16-23)
Chúa Giêsu không nói: Ta là sự
sống và là sự sống lại, nhưng Ngài nói: Ta là
sự sống lại và là sự sống”. Sống lại với Đức Kitô để
rồi như Ngài sống vinh hiển trong Nước Thiên
Chúa. “Nếu ta cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ
cùng sống lại với Ngài”( 2Tm 2: 11)
Thánh Phaolô đã cho chúng ta một kinh
nghiệm sống: “Tôi sống, nhưng không còn phải là
tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện
nay, tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con
Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng
vì tôi” (Gl. 2:20).
Sống là cảnh giác những gì mà tác
giả thánh vịnh đã xin: “Lạy Chúa, tôi ca tụng Chúa
vì đã giải thoát tôi, và không để quân thù hoan hỉ
về tôi. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn tôi
thoát xa âm phủ, Ngài đã cứu tôi khỏi số
người đang bước xuống mồ”. ( Tv. 29)
Mọi người đã
chết đều sẽ phục sinh. “Ai đã làm
điều lành thì sẽ sống lại để
được sống, ai đã làm điều dữ thì
sẽ sống lại để bị kết án” ( Ga.
5:29)
Chỉ có sự phục sinh
trong ngày sau hết mới thực sự đem thân xác và
linh hồn chúng ta vào cõi sống vĩnh hằng.
Sống là chuẩn bị
chết; và chết là đi vào cõi sống. Chúng ta
đã, đang và sẽ chuẩn bị gì cho sự sống
sau cái chết?.
|