Yêu nhiều tha nhiều, yêu ít tha ít - William
Barclay
Sách Tin Mừng của Luca
đặc biệt nhấn mạnh về ân điển và sự tha thứ của Chúa Giêsu.
Chỉ một mình Luca ghi lại lòng từ ái đối
với quả phụ thành Nain, và cũng chỉ sách này
kể lại lòng ưu ái của Ngài dành cho người
đàn bà tội lỗi đã xức dầu dưới
chân Ngài nơi nhà người biệt phái Simon. Tuy nhiên,
đây không chỉ là bức tranh về lòng từ bi
thương xót của Chúa, mà cũng là bức tranh về
lòng biết ơn vô bờ của kẻ đã nhận món
quà vô giá của ơn tha tội.
Có một sự lầm lẫn
nào đó trong khi giải thích, nên có người đã cho
người phụ nữ này là cô Maria Mácđala hay Maria em
của Mátta ở Bêtania. Ba người này khác nhau. Thật
ra Chúa có đuổi quỷ cho người thứ nhất,
người thứ hai và người phụ nữ trong câu
chuyện này đã xức dầu cho Chúa, nhưng có lý do
khiến ta tin rằng trong ba người chỉ có một
người là tội nhân.
Mọi việc diễn ra
tại sân nhà ông Simon, một đạo sĩ Do thái. Các nhà
của giới giàu có thường được xây quanh
một khu sân rộng như một công viên trống
trải. Thường trong sân có vườn cây và giếng
nước, vào mùa nóng nực người ta bày ăn
tại đó. Ở Paletttin mỗi khi có một rabi nào
đến dự tiệc, thì mọi người
được tự do đến nghe những lời khôn
ngoan của rabi dạy. Thói quen đó giải thích sự có
mặt của người đàn bà này trong nhà Simon. Khi có
khách đến nhà, người ta thường làm ba
việc sau đây: chủ nhà đặt tay lên vai khách và
tặng vị khách một cái hôn hòa bình. Đó là dấu
hiệu của lòng tôn kính, nhất là trong trường
hợp gặp một rabi danh tiếng. Đường xá
đầy cát bụi và giầy chỉ là những đôi
dép đơn giản, nên người ta đổ
nước lạnh lên bàn chân để rửa sạch
bụi và làm mát chân khách. Người ta cũng đốt
lên một nhúm hương liệu cho thơm, hoặc
đổ một giọt dầu hoa hồng lên đầu
khách. Phép lịch sự đòi hỏi những điều
đó, nhưng trong trường hợp này chủ nhà
lại bỏ hết. Khi ăn, thực khách không ngồi,
nhưng nằm nghiêng quanh bàn tiệc. Họ dựa trên
những chiếc gối thấp, chống trên khuỷu tay
trái, tay mặt để tự do, hai chân duỗi thẳng
về phía sau, bỏ dép ra. Tư thế đó cho phép
người đàn bà có thể đứng gần chân Chúa
Giêsu.
Simon là một đạo sĩ
Do thái, một trong những người thuộc nhóm
biệt phái. Tại sao một người như vậy
lại mời Chúa Giêsu tới nhà mình? Rất có thể Simon
này là người thích nổi tiếng, với thái
độ nửa trọng nửa khinh, ông đã mời
chàng thanh niên kỳ lạ này đến ăn tiệc trong
nhà mình. Vì thế ta hiểu tại sao có sự pha trộn vừa
có vẻ tôn kính lại vừa bỏ qua phép lịch sự
phải giữ. Hẳn Simon là
một người có thái độ kẻ cả
đối với Chúa Giêsu.
Người đàn bà trên đây
nổi tiếng là xấu nết, một gái mãi dâm.
Dường như nàng đã đứng lẫn vào đám
đông để nghe Chúa giảng, đã gặp Chúa
trước đó, đã ăn năn tội của nàng và
được Chúa tha thứ. Theo tập tục của
phụ nữ Do thái, một chai nhỏ dầu thơm nguyên
chất, quen gọi là bình ngọc, rất đắt
tiền thường được đeo trên cổ. Nàng
chỉ ước ao được đổ bình dầu
thơm đó lên chân Ngài, vì đó là tất cả những
gì nàng có để dâng cho Ngài.
Nhờ
lòng biết ơn, nàng được can đảm đi
vào nhà Simon trước con mắt xoi mói của nhiều
người khi Chúa Giêsu đang là khách trong nhà ông. Nàng
đến để xức dầu chân Chúa, nhưng khi nhìn
thấy Ngài, nàng quá cảm động nước mắt
đổ ra chảy xuống chân Ngài. Nàng vội vàng tháo tóc
ra lau khô rồi đổ chai dầu thơm lên. Một
phụ nữ Do thái xõa tóc nơi công cộng là đã
phạm một lỗi lớn về phẩm hạnh.
Người đàn bà này tỏ ra quên hẳn mọi
người có mặt chỉ còn thấy một mình Chúa
Giêsu thôi. Đối với nàng không có cách nào hơn
để biểu lộ lòng biết ơn và sự hy sinh
nhiệt thành của mình.
Việc Chúa để cho một
người phụ nữ kém phẩm hạnh biểu
lộ lòng kính yêu đối với Ngài khiến Simon
kết luận rằng Chúa Giêsu có lẽ không phải là tiên
tri, vì nếu là tiên tri hẳn Ngài phải biết sự
thật về người đàn bà hư hoại này.
Câu trả lời của Chúa
tỏ ra rằng Chúa có thể đọc được
những ý nghĩ tưởng thầm kín của ông chủ
nhà. Câu trả lời chẳng những đáp lại
lời chỉ trích thầm lặng của chủ nhà, mà còn
cho thấy tình trạng tâm hồn của ông, Simon không
biết sự thiếu thốn của mình, vì thế không
cảm biết tình yêu, và cũng vì thế không nhận
được ơn tha thứ. Chúa Giêsu đưa ra ví
dụ về hai người mắc nợ rồi
được tha, giải thích rằng lòng biết ơn
nhiều hay ít tùy theo món nợ được tha nhiều
hay ít, rồi áp dụng nguyên tắc ấy cho Simon và
người đàn bà mà ông có ý khinh dể. Chúa Giêsu kể
cặn kẽ Simon đã thiếu tình yêu đối với
Ngài như thế nào rồi đem đối chiếu
với sự ân cần của người phụ nữ.
Khi vào nhà, Simon đã bỏ qua tục lệ đưa
nước rửa chân cho Ngài, còn người đàn bà
đã rửa chân Ngài bằng nước mắt; Simon đã
bỏ qua cái hôn mà đáng lẽ người chủ
phải dùng để đón chào vị khách, người
đàn bà đã nồng nhiệt hôn chân Ngài; Simon không đem
dầu thơm xức cho vị khách quý, còn người
đàn bà này đến với mục đích duy nhất
để xức dầu thơm lên chân Chúa.
Sứ điệp của Chúa
thật rõ ràng qua thí dụ đó: “Yêu nhiều tha nhiều,
yêu ít tha ít”. Chúa không có ý nói rằng trước đó
nàng chưa được tha tội cũng không có ý nói tình
yêu là điều kiện để được tha
tội. Ngài có ý nói rằng tình yêu của nàng là kết
quả của sự tha thứ, và câu nói của Ngài
diễn giải ra thế này thì đúng hơn: “Ta nói cho ông
hay, tội lỗi đầy dẫy nơi nàng đã
được tha, ông có thể suy đoán điều
đó căn cứ vào cách biểu lộ lòng yêu
thương của nàng”. Phần còn lại trong câu thì dành
cho Simon: “Kẻ được tha ít thì yêu thương ít”.
Những lời ấy không minh chứng Simon
được tha tội, câu ấy chỉ rằng sở
dĩ ông thiếu tình yêu vì ông không cảm biết
được sự thiếu thốn của mình, cũng
vì thế ông đã ông nhận được ơn tha thứ.
Simon tin tưởng mình là người tốt trước
mặt loài người và Thiên Chúa.
Rồi Chúa quay lại
người phụ nữ nói một lời chúc phúc: “Tội
của chị đã được tha rồi”.
Như vậy Ngài xác nhận sự tha tội đã
được ban cho nàng rồi, hơn nữa Ngài cũng
biện minh cho nàng trước công chúng để họ
biết rằng nàng đã bước vào một cuộc
sống mới. Họ ngạc nhiên khi nghe Ngài tuyên bố
sự tha tội. Đây là chức vụ của
Đấng Mêsia, nhưng Con Người lý tưởng mà
Luca ghi chép về tấm lòng nhân hậu ở đây,
cũng đồng thời là con Thiên Chúa. Cuối cùng Ngài
quay lại người phụ nữ phán cho nàng những
lời ân huệ: “Lòng tin của chị đã
cứu chị. Chị hãy đi bình an”.
Đây là bài học rõ ràng về
việc đức tin đem
lại ơn tha thứ, sự
tha thứ đem lại lòng biết ơn và lòng biết
ơn được diễn tả qua một hành
động yêu thương tận tụy. Một thái
độ như vậy có thể ra đi trong bình an
nghĩa là hưởng được sự hiện
diện liên tục của bình an này.
Con người tự sức
mình đâu có đáng được tha thứ, vì tội xúc
phạm tới Chúa thì sự nặng nề vô cùng. Do đó
phải chạy đến với Bí tích Hòa giải,
nới đó Chúa tha thứ cho chúng ta nhờ công đức
của Chúa Giêsu Kitô. Điều kiện duy nhất không gì
có thể thay thế về phía của chúng ta là tình yêu sám hối.
Chúng ta nhận được tha thứ là tùy theo mức
độ ta cảm nhận tình yêu mến; khi lòng chúng ta
đã tràn đầy tình yêu, thì đâu còn chỗ cho tội
lỗi trong đó vì khi đó chúng ta đã dọn một
chỗ rõ rệt cho Chúa Giêsu Đấng nói với chúng ta
như đã nói với người đàn bà tội
lỗi: “Tội con đã được tha”. Lòng sám hối
của chúng ta là bằng chứng lòng ta yêu Chúa. Nhưng
thực ra chính Chúa đã yêu chúng ta trước (1Ga 4,10). Khi
Chúa tha thứ cho ta, Thiên Chúa biểu lộ Người yêu
ta. Do đó, ta có yêu Chúa là chỉ đáp lại tình Ngài yêu.
Sự tha thứ của Chúa là tưởng thưởng
lòng biết ơn và tình yêu của chúng ta đối với
Ngài.
Thánh Augustinô giải thích: “Ai
được tha thứ ít thì yêu ít”. Bạn nói là
bạn không phạm nhiều trọng tội, tại sao
bạn lại không phạm? – Vì Chúa đã cầm lấy tay
bạn. Không có tội nào mà người ta không thể phạm
nếu Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người,
không cầm lấy tay (Sermon 99,6). Như thế, chúng ta
phải yêu Chúa ngày càng nhiều hơn, vì chẳng những
Ngài tha thứ tội được, mà còn nhờ ơn
Ngài ban, gìn giữ ta khỏi vi phạm.
Chúa Giêsu tuyên bố rằng
niềm tin đã dẫn đưa người phụ
nữ tội lỗi tới quỳ dưới chân Ngài và tỏ
lòng sám hối. Nhờ sám hối nàng đáng được
ơn tha thứ. Cũng thế khi chúng ta tới tòa Hòa
giải, chúng ta phải có một xác tín rằng đây không
phải là cuộc đối thoại giữa con
người mà là đối thoại với Thiên Chúa;
đây là tòa công lý, dứt khoát. Nhưng trên hết là tòa
thương xót mà quan án xét xử là Đấng đầy
lòng yêu mến “Không muốn kẻ có tội phải
chết, nhưng mong nó ăn năn và được
sống”. (Ed 33,1)
Tinh thần tự mãn ngăn cách
loài người vớ Thiên Chúa, và điều lạ là
hễ ăn càng tốt thì càng cảm biết tội
lỗi của mình cách sâu xa. Phaolô nói về tội nhân:
“Trong số đó tôi đứng đầu”. (2Tm 1,25) Thánh
Phanxicô Assisi nói: “Không ở đâu có một tội nhân
khốn nạn hơn tôi!”.
Thật rất đúng khi nói
rằng tội nặng nhất là không nhận biết
tội mình, nhưng ai cảm biết mình thiếu thốn
sẽ mở cửa vào ơn tha thứ của Chúa, vì Thiên
Chúa là tình yêu và vinh hiển lớn nhất cho tình yêu là
được thấy người đời tìm cầu
đến tình yêu.
PHÚC ÂM
CỦA PHỤ NỮ (Lc 8,1-3)
Luca viết Phúc Âm của phụ
nữ. Chỉ có một mình ông ghi lại những việc
xảy ra cho cuộc đời của bà Êlisabet,
Đức Maria, cụ bà Anna liên quan đến thời
thơ ấu của Đức Giêsu. Chỉ có ông kể
lại câu chuyện bà góa Nain được Chúa cứu
người con trai sống lại, chuyện người
đàn bà khòm lưng dưới ách ma quỷ đã
được Chúa giải cứu, chuyện nữ tội
nhân xức dầu chân Chúa, chuyện người đàn bà
chúc mừng Mẹ Chúa, quang cảnh gia đình chị em
Matta và Maria, và chuyện những người đàn bà
thương khóc Ngài trên đường núi Sọ. Và có
lẽ, ý nghĩa hơn hết là câu Luca nói về Chúa Giêsu
lúc Ngài và các môn đệ đi quanh vùng Galilê để rao
giảng Tin Mừng thì một toán phụ nữ đi theo,
những người này lấy của cải mình mà giúp
đỡ Đức Giêsu và các môn đệ.
Cửa nhà hội từ nay không
còn mở ra cho Ngài như trước nữa. Có thể nói,
Ngài đã bắt đầu trong Giáo Hội, là nơi
lẽ ra có đông dân chúng sẵn lòng hưởng ứng và
tiếp nhận những sứ giả của ngài. Nhưng
thay vì được hoan nghênh, Ngài đã bị chống
đối, thay vì thính giả lắng nghe, Ngài đã gặp
các thày dạy luật và các đạo sĩ Do thái là
những kẻ chỉ rình mò và bắt bớ Ngài trong
lời nói cũng như việc làm. Vì thế, Ngài ra ngoài,
giảng dạy trên đường, nơi sườn
đồi hay trên bờ hồ.
1. Đoạn Kinh Thánh này nói
đến một nhóm phụ nữ phục vụ Chúa
bằng của cải của họ.
Việc nâng đỡ một rabi bao giờ cũng
được coi là một việc đạo đức,
cho nên những tín hữu sốt sắng của Chúa Giêsu
giúp đỡ Ngài theo cảnh đó là việc phù hợp
với thói thường. Nhưng đối với số
phụ nữ này, cũng như đối với các môn
đệ, chúng ta nhận thấy đó là một nhóm
người pha trộn rất kỳ lạ.
Có Maria Mácđala, là người
đã được Chúa trừ khỏi bảy quỷ
dữ. Rõ ràng nàng đã có một cuộc đời tối
tăm, ghê rợn. Lại có bà Gioanna, vợ ông Khuda, quan
nội vụ của Hêrôđê. Một vị vua thì có
nhiều lợi lộc và tài sản, quan nội vụ là
người quản lý các vấn đề tài chánh của
nhà vù. Trong đế quốc La mã, dù trong các tỉnh
dưới quyền cai trị của tống trấn
Thượng viện cắt đặt, thì hoàng đế
cũng đặc cách quan nội vụ riêng để coi
sóc tài sản của mình. Vì vậy, không có vị quan nào quan
trọng hơn và được tín nhiệm hơn là quan
nội vụ. Thật là điều lạ lùng khi thấy
Maria Mácđala với một dĩ vãng không mấy sáng
sủa và bà Gioanna một mệnh phụ phu nhân của
triều đình ở chung một nhóm với nhau. Chúng ta
không biết nhiều về các bà này, ngoại trừ
một điều quan trọng, ấy là động cơ
thúc đẩy họ phụng sự Chúa là lòng biết
ơn, họ là những người được Chúa
trừ tà và chữa bệnh cho. Đó là quyền năng
tuyệt đối của Chúa Giêsu khiến những
người khác tính nhau có thể gánh chung ách với nhau.
Nếu chúng ta thất bại, thì đó là lỗi của
chúng ta, vì trong Chúa Giêsu, điều đó có thể làm
được và điều đó đã làm rồi.
2. Câu này của Luca ngắn
ngủi nhưng rất có ý nghĩa; nó hé mở cho ta
một tia sáng để trả lời một câu hỏi tò
mò mà ta không tìm thấy câu giải đáp nào trong các sách Tin
Mừng. Trong những ngày đi truyền đạo,
Đức Giêsu và các môn đệ đi theo Ngài sống
nhờ nguồn tài chánh nào? Hẳn nhiên những kẻ
đã nhận nơi Ngài những sự cứu giúp
thuộc linh, rất sung sướng được cung
ứng cho Ngài những nhu cầu tạm thời và phục
vụ cho Ngài khi cần thiết. Đây là những phụ
nữ có những sự giúp đỡ rất thực
tiễn. Là đàn bà, họ không được phép giảng
dạy, nhưng họ cung cấp những thứ họ
có.
Có
một anh thợ giày kia đã có một thời chàng mơ
ước được làm linh mục, nhưng con
đường dẫn tới đó không bao giờ mở
ra cho anh. Anh là bạn thân của một chủng sinh
thần học. Khi thấy bạn mình được
tiến chức linh mục, anh xin cho mình một đặc
ân là thường xuyên đóng giày cho linh mục bạn,
để anh có cảm giác vị linh mục đang mang giày
của ông nơi thi hành chức vụ là nơi chính anh
đã không bao giờ đạt tới.
Ai có thể ước
lượng được những góp phần và hy sinh mà
nữ giới trải qua các thời đại đã
đóng góp vào việc truyền bá Tin Mừng và xây dựng
Hội Thánh.
Không phải những
người xuất đầu lộ diện bao giờ
cũng là kẻ làm việc lớn nhất. Không có ân tứ
nào mà lại không ích lợi cho việc phục vụ Chúa.
Nhiều đầy tớ lớn của Chúa vẫn ở
hậu trường không ai thấy, nhưng họ rất
cần thiết cho công việc của Ngài.
Người
chồng trang trí căn phòng mới của ông và quyết
định biến nó thành một nơi trưng bày các
phần thưởng, những thành tích mà ông và hai
người con trai của ông chiếm được trong
các cuộc tranh tài thể thao. Khi ông trang trí đầy
ắp hai bức tường trong phòng, ông lưu ý vợ
ông rằng: “Bà không có gì để trưng bày sao! Thật là
xấu hổ!”
Ngày hôm
sau, người vợ cho sao lại giấy khai sinh của
hai đứa con của họ, đóng khung đàng hoàng và
treo lên bức tường trang trí của người
chồng.
“Hưởng ánh sáng của
ngọn đèn, bạn đừng quên cám ơn
người cầm chiếc đèn đang đứng trong
bóng tối”. (Tagore)
|