NGƯỜI BẠN
GIÀ
[Đăng
báo ĐMHCG số 376, tháng 12-2017, DCCT xuất
bản tại Hoa Kỳ]
Thiên
Chúa dạy: “Thấy
người đầu bạc, ngươi phải
đứng lên, ngươi phải kính
trọng người già cả: như vậy
là ngươi kính sợ Thiên Chúa
của ngươi”
(Lv 19:32).
Trước
khi nhấn số, tôi biết sai nhưng tôi
vẫn cứ nhấn. Điện thoại reo một
lần, hai lần, rồi có người nhấc
máy. Giọng đàn ông khàn khàn:
“Anh
gọi lộn số rồi”.
Điện thoại cúp. Tôi lại nhấn
gọi số cũ. Vẫn giọng đàn ông
khàn khàn: “Tôi
đã nói anh lộn số rồi mà”.
Sao
ông ta lại biết tôi gọi lộn số?
Lúc đó tôi làm việc ở
phòng cảnh sát New York. Công việc
của cảnh sát là điều tra –
và quan tâm. Tôi gọi lại lần thứ
ba. Vẫn giọng nam: “Thôi
nhé! Lại vẫn là anh à?”.
Tôi đáp: “Cháu
đây. Cháu thắc mắc là làm
sao ông biết cháu gọi lộn số khi
cháu chưa nói gì?”.
Ông ta nói nhanh: “Anh
tự nghĩ ra”.
Điện thoại cúp. Tôi không kịp
nói gì thêm.
Tôi
ngồi lặng lẽ với ống nghe nằm lơi
lỏng ở tay. Tôi lại gọi lần nữa.
Ông ta hỏi tôi: “Anh
đã nghĩ ra chưa?”.
Tôi nói: “Điều
duy nhất cháu có thể nghĩ ra là…
không có ai gọi cho ông”.
Ông ta lạnh lùng: “Đủ
rồi đó!”.
Tôi khúc khích cười, rồi thản
nhiên quay lại số cũ. Ông ta hỏi:
“Bây
giờ anh muốn gì?”. “Cháu nghĩ
cháu gọi chỉ để… để
chào ông thôi”. “Chào tôi?
Tại sao?”. “À, nếu không có
ai gọi cho ông thì cháu nghĩ cháu
nên gọi cho ông”. “Được.
Xin chào. Vậy anh là ai?”. “Cháu
là Jennings Michael Burch”.
Cuối
cùng thì tôi đã gọi được.
Bây giờ đến lượt ông ta hiếu
kỳ. Tôi cho ông ta biết tôi là
ai và hỏi ông ta là ai. Ông ta thản
nhiên: “Tôi
là Adolf Meth, 88 tuổi. Suốt 20 năm qua tôi
chưa bao giờ gọi lộn số nhiều lần
như vậy”.
Chúng tôi cùng cười to.
Chúng
tôi nói chuyện được 10 phút.
Adolf không vợ con, không bạn bè.
Người thân của ông đã chết
hết. Chúng tôi thấy có điều
gì đó rất giống nhau. Ông ấy
cũng đã từng làm cho phòng cảnh
sát New York gần 40 năm. Ông kể cho tôi
nghe thời ông là nhân viên điều
hành thang máy, ông có vẻ quan tâm
và thân thiện. Tôi hỏi tôi có
thể gọi lại cho ông ấy hay không.
Ông ngạc nhiên hỏi: “Tại
sao anh muốn gọi cho tôi?”. “À,
chúng ta có thể là bạn qua điện
thoại, giống như bạn thư tín vậy
mà”.
Ông ta ngập ngừng, giọng có vẻ
thăm dò: “Tôi
không nghĩ là… tôi lại có
bạn”.
Chiều
hôm sau, tôi gọi cho ông. Vài ngày
sau tôi vẫn gọi cho ông. Ông là
người dễ nói chuyện. Ông kể
về thế chiến I và II, tai nạn khí
cầu máy Hindenburg và các sự kiện
lịch sử khác. Lối kể chuyện gây
ấn tượng. Tôi cho ông số điện
thoại nhà và cơ quan để ông
có thể gọi cho tôi khi ông muốn.
Hầu như ngày nào ông cũng gọi.
Tôi
không chỉ tử tế với ông già
cô đơn đó. Nói chuyện với
ông trở nên quan trọng đối với
tôi, vì tôi cũng có một khoảng
trống lớn trong cuộc sống. Lớn lên
trong cảnh mồ côi và nhà từ
thiện, tôi không biết cha mẹ là
ai. Dần dần ông quan trọng như một
người cha đối với tôi. Tôi
nói về công việc và việc học
tập của tôi tại lớp học ban đêm.
Ông
Adolf đóng vai trò là người chỉ
giáo. Khi thảo luận với ông về
chuyện bất đồng ý kiến giữa
tôi với cấp trên, tôi nói: “Cháu
phải giải quyết với cấp trên”.
Ông ôn tồn: “Sao
vội thế? Hãy để cho mọi chuyện
lắng xuống. Khi anh già bằng tuổi tôi
thì anh sẽ thấy thời gian quan trọng
lắm. Nếu mọi chuyện tệ hại hơn,
anh có thể nói chuyện với cấp
trên”.
Im
lặng một lúc lâu, ông nhẹ giọng:
“Tôi
hiểu. Tôi sẽ nói với anh như nói
với con trai của tôi. Tôi luôn muốn
có một gia đình, có con cái.
Anh còn quá trẻ nên chưa hiểu
được cảm giác đó”.
Nhưng không phải vậy. Tôi lại luôn
muốn có một gia đình, có cha
mẹ. Tôi không nói gì vì sợ
rằng tôi không thể kiềm chế nỗi
đau trong lòng đã quá lâu!
Một
buổi tối nọ, ông Adolf nói sinh nhật
thứ 89 của ông sắp tới. Tôi mua
một miếng bìa cứng để tự
làm thiệp sinh nhật tặng ông, với
một chiếc bánh và 89 ngọn nến.
Tôi hỏi ý kiến các bạn cảnh
sát, ai cũng tán thành. Tôi có
được gần 100 chữ ký. Tôi
biết ông Adolf sẽ không đồng ý
vậy.
Chúng
tôi đã nói chuyện với nhau qua
điện thoại được 4 tháng. Tôi
nghĩ đây là thời điểm tốt
để gặp nhau. Tôi quyết định
trao tấm thiệp sinh nhật tận tay ông.
Tôi không cho ông biết tôi sẽ
đến. Tôi chạy xe đến nhà ông
vào buổi sáng. Tôi đến thì
thấy bưu tá đang bỏ thư vào
thùng thư trước cổng. Tim tôi đập
rộn ràng. Chúng tôi có đồng
cảm như khi nói chuyện qua điện
thoại? Tôi hơi e ngại. Có thể ông
sẽ xua đuổi tôi như cha mẹ tôi
đã bỏ rơi tôi. Tôi gõ cửa.
Không thấy ai ra, tôi lại gõ mạnh
hơn.
Người
đưa thư nói với tôi: “Không
có ai đâu”.
Tôi nói: “Tôi
và ông ấy vẫn nói chuyện qua
điện thoại mà”.
“Anh
là người thân hay là gì?”.
Tôi nhẹ lắc đầu: “Không.
Tôi chỉ là người quen”.
Người đưa thư nhìn tôi: “Thật
tiếc! Ông Adolf mới mất hôm kia”.
Ông
Adolf chết ư? Tôi thực sự bất ngờ.
Tôi đứng lặng người và không
muốn tin điều tôi vừa nghe. Tôi
cảm ơn người đưa thư và
lặng lẽ bước đi dưới ánh
nắng. Tôi đã khóc. Cái chết
bất ngờ của ông làm tôi nhận
ra rằng tình cảm của con người
dành cho nhau rất quý. Tôi nhớ giọng
ông nói và cách nói chuyện
chân thành của ông.
Tôi
đặt tấm thiệp vào hộp thư
trước cổng nhà ông, nhìn lại
căn nhà và thầm nói: “Ông
Adolf ơi! Cháu không gọi lộn số
đâu, cháu đã thực sự có
ông rồi. Xin Thiên Chúa thương
xót, thứ tha và đưa ông vào
Nước Trời. Cầu mong ông thanh thản
nơi cõi vĩnh hằng, ông nhé!”.
VIỄN
ĐÔNG
(chuyển ngữ từ Catholic Digest)
|