Ác ngầm – Lm. Phêrô
Bùi Quang Tuấn
Cổ
Học Tinh Hoa có thuật lại câu chuyện xảy ra trong
thời Chiến quốc bên Trung Hoa: Vua nước Nguỵ
muốn cầu hoà với vua Kinh nước Sở nên
đã dâng cho vua này một cô gái tuyệt đẹp. Vua Kinh yêu nàng ta mê mệt đến nổi
chẳng còn thiết gì đánh nhau. Vua
đem cô gái về nước và lập làm vợ thứ.
Hoàng hậu nước Sở là Thịnh Tụ
thấy vua thương cô gái cũng đem lòng quí mến
chiều chuộng. Muốn mặc gì, đi chơi đâu,
nhất nhất hoàng hậu cũng đồng ý. Thấy
thế vua Kinh mừng lắm, có lần khen: “Hoàng hậu
thấy ta yêu quí vợ mới mà cũng đem lòng
thương mến như thế thì có gì khác nào con thảo
biết thờ kính cha mẹ, tôi trung biết làm vui chủ
mình”.
Hoàng hậu
thấy vua không nghi ngờ gì nên một dịp kia mới bảo cô gái đẹp:
“Đức vua thương yêu ngươi lắm, chỉ
ghét có cái mũi của ngươi. Giá mà từ nay, mỗi
lần trông thấy đức vua, ngươi che mũi
lại thì chắc sẽ được yêu thương
hơn nhiều”.
Nghe
lời khuyên nên hễ vừa thấy đức vua, cô gái
nọ liền che mũi lại. Thấy lạ vua Kinh
mới dò thăm với hoàng hậu. Trước
thì hoàng hậu trả lời “không biết” đến khi
thấy vua cứ gặng hỏi, bà mới nói; “Thiếp
nghe đâu cô ấy nói thân thể đức vua có mùi hôi khó
ngửi, nên cứ phải che mũi thế đấy”.
Nghe
vậy nhà vua nổi giận quát lên: “Thế thì xẻo ngay
cái mũi của nó cho ta”.
Lập
tức một tên lính cầm dao đi xẻo mũi cô gái,
bởi hoàng hậu có dặn: hễ nghe vua phán gì thì
phải thi hành ngay.
Ôi nham
hiểm và thâm độc thay! Lòng bừng bừng ghen
tức, nhưng ngoài mặt lại rộng lượng vô
bờ. Bên trong muốn xé nát người ta, nhưng bên ngoài
vẫn quyến luyến thiết tha. Rồi cuối cùng,
bằng một mũi tên độc, Trịnh Tụ hạ
được hai “con nhạn”: tình địch bị
cắt mũi, nhà vua mất người yêu. Thế mới
hay tác hại kinh khủng của những kẻ khẩu
tâm bất nhất. Miệng nam mô, lòng là một bồ dao
găm. Tội nghiệp nhà vua, vô tư đến nỗi
tưởng lời nói của hoàng hậu là chân tình.
Thấy người ta thuận ý thì đắc chí, khi nghe
tiếng chê thì lồng lộn căm tức, không cần
suy xét, nên mắc vào cạm bẫy gian manh.
Hôm nay, một chiếc
bẫy cũng được giương lên rất khéo. Kẻ đặt bẫy
cũng tinh ranh không kém Trịnh Tụ. Nhưng người
họ muốn gài bẫy không dại khờ như vua Kinh.
Các ký lục biệt phái
cùng nhóm người Hêrôđê giăng lên một chiếc
bẫy. Họ
chắc mẩm Chúa có chạy đường trời
cũng không thoát. Đầu tiên họ ca tụng tang
bốc Ngài lên tận mây xanh. Nào là “chúng tôi
biết Thầy là người ngay chính”, nên chúng tôi tìm
đến. Nào là “Thầy cứ căn cứ theo sự thật mà dạy bảo
đường lối Thiên Chúa”, nên chúng tôi xin học
hỏi. Nào là “Thầy không thiên tư tây
vị ai”, nên thầy sẽ nói tất cả, chẳng
sợ mất lòng người nào. Thật ghê gớm! Lời ca tụng của họ ngầm bảo
rằng chuyến này Đức Giêsu phải mở
miệng. Mà như thế ắt sẽ
mắc quai.
Sau khi rào đầu chắn đuôi,
họ mới giăng bẫy để Chúa bước vào:
“Thưa Thầy, có nên nộp thuế cho Cêsarê không?”. Nếu không im lặng thì câu
trả lời chỉ còn là “có” hay “không”. Nhưng “có” cũng chết, mà “không” cũng
hết sống. Vì khi trả lời “có”, lập
tức Đức Giêsu bị ghép với phường thu
thuế, đám người đang bị dân Do thái ghét
đắng ghét cay: hễ ai ủng hộ nộp thuế
hay cộng tác với chính quyền Rôma đều bị xem
như bọn cấu kết với ngoại bang, thiếu
tinh thần dân tộc, và đáng khinh chứ không đáng
kính, đáng tôn. Nhưng nếu Đức Giêsu nói “không”,
ngay lập tức bọn theo phe
Hêrôđê sẽ tố cáo Ngài có tinh thần dấy loạn,
dám chống lại chính sách nhà nước. Và tất nhiên
Ngài sẽ khó tránh khỏi án phạt
đích đáng.
Một câu hỏi đơn sơ nhưng sao khó giải quyết. Tuy nhiên việc giải quyết câu hỏi vẫn
không phức tạp cho bằng giải quyết lòng
người. Phức tạp là vì người hỏi
không mang chủ đích tìm một con đường hay
một hướng đi cho đời, nhưng là
để làm hại kẻ khác. Phức tạp còn là vì
người hỏi không định lái đời mình theo điều dạy bảo, nhưng mong có
câu trả lời theo ý mình muốn.
Đừng tưởng
chỉ có đời xưa người ta mới hỏi
phức tạp như thế. Đời nay cũng thế thôi! Có người
từng đặt vấn đề: “Con đi làm, bị
chủ trả lương thấp, con câu giờ, làm ít tính
nhiều có tội không? Mình ‘ăn’ tiền
chính phủ rồi thỉnh thoảng đem cúng nhà thờ
có sao không?” Có người lại thắc mắc:
Nếu vợ chồng chẳng còn nồng ấm, gia
đình đang biến thành hoả ngục, li dị hay
ngoại tình sẽ là lối thoát hay nhất, nhưng
tại sao Giáo hội không cho phép?” Người khác còn nói:
“Thời buổi này nuôi dạy con cái không dễ, nhưng sao
Giáo quyền không cho ngừa thai như chính quyền cho phép?
Tại sao Giáo hội không rộng rãi đôi chút để
đáp ứng lối sống và nhu cầu con người
thời đại? Dường như lề luật
của Chúa và Giáo hội làm nên xiềng xích trói buộc
tự do và hạnh phúc con người?”
Thế đấy, xưa và nay không
thiếu những câu hỏi “đơn sơ” như
của biệt phái và bè Sađoc. Nhưng một câu hỏi
và cũng là câu trả lời căn bản nhất sẽ
là: Tại sao người ta không chịu thay đổi
lối sống cho phù hợp với những giá trị
bất biến của Tin Mừng như công bằng, hy
sinh, bác ái, yêu thương, tha thứ, tôn trọng sự
sống, một vợ một chồng…, mà lại cứ
đòi Chúa Kitô và Giáo hội thay đổi chân lý theo sở
thích và đam mê của con người? Tại
sao không dùng những phương cách chính đáng để
đạt đến mục đích tốt lành mà lại
dùng những mục đích rất kêu để biện
minh cho các hành động vô luân và bất nhân?
Thành ra vấn nạn không phải
nơi Thiên Chúa nhưng là nơi con người. Thay vì “con vâng ý cha”, người ta lại cứ
muốn “Cha theo ý con”. Vấn đề không phải là
Thiên Chúa hay Giáo hội khắt khe, độc tài, thiếu
cảm thông hiểu biết, nhưng vấn đề là vì
con người cứ cho mình hiểu biết hơn Thiên
Chúa, khoan nhân hơn Hội Thánh. Thế rồi khi lên
tiếng thì tiếng đó không phát xuất từ con tim khao khát chân lý, muốn tìm con
đường đúng nhất hầu có được
niềm vui thẳm sâu, nhưng nó lại phát xuất từ
ích kỷ dối gian, đam mê bất chính, khát khao tội
lỗi. Chúng đến từ ý tưởng
của thế gian chứ không phải từ Thiên Chúa.
Trong khi người ta hỏi Chúa Giêsu
về chuyện thế tục, Ngài lại hướng
họ đến một chiều kích cao hơn: Hãy trả
cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Thử hỏi, có gì tốt đẹp
người ta nhận được mà không đến
từ Thiên Chúa. Thành ra, vượt lên Cêsarê để
đi đến Thiên Chúa, vượt qua vật chất
để hướng về tâm linh là bổn phận
cần thiết nhất trong đời con người.
Ước chi bao tâm tư mỗi ngày
đời tôi sẽ luôn khởi đi từ con tim mến thương chân thành, nhiệt tình
xây đắp nhân phẩm, tha thiết làm sáng danh Cha. Có thể, hồn tôi sẽ được bình an;
cuộc sống sẽ chứa chan tin yêu hy vọng.
|