CHÚA NHẬT 3
PHỤC SINH A
Cv 2,14.22-33 ; 1 Pr 1,17-21 ; Lc 24,13-35
LẠY CHÚA, XIN Ở LẠI
VỚI CHÚNG CON
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 24,13-35
(13) Cùng ngày hôm ấy, có hai người
trong nhóm môn đệ đi đến một làng
kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem sáu mươi
dặm. (14) Họ trò chuyện với nhau về
tất cả những sự việc mới xảy
ra. (15) Đang lúc trò chuyện và bàn tán,
thì chính Đức Giê-su tiến đến gần
và cùng đi với họ. (16) Nhưng mắt
họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người.
(17) Người hỏi họ: “Các anh vừa
đi vừa trao đổi với nhau về chuyện
gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt
buồn rầu. (8) Một trong hai người tên là
Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là
người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem
mà không hay biết những chuyện đã xảy
ra trong thành mấy bữa nay”. (19) Đức Giê-su hỏi:
“Chuyện gì vậy ?” Họ thưa: “Chuyện ông
Giê-su Na-da-rét. Người là một Ngôn sứ
đầy uy thế trong việc làm cũng như lời
nói trước mặt Thiên Chúa và toàn
dân. (20) Thế mà các thượng tế và
thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người
để Người bị án tử hình,
và đã đóng đinh Người vào
thập giá (21) Phần chúng tôi, trước
đây vẫn hy vọng rằng chính Người
là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn
nữa, những việc ấy xảy ra đến
nay là ngày thứ ba rồi. (22) Thật ra, cũng
có mấy người đàn bà trong nhóm
chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các
bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, (23) không
thấy xác Người đâu cả, về còn
nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo
rằng Người vẫn sống. (24) Vài người
trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy
sự việc y như các bà ấy nói: còn
chính Người thì họ không thấy”. (25) Bấy
giờ Đức Giê-su nói với hai ông
rằng: “Ôi những kẻ tối dạ, những
lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ
! (26) Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải
chịu khổ hình như thế, rồi mới vào
trong vinh quang của Người sao ? (27) Rồi bắt
đầu từ ông Mô-sê và tất cả các
ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những
gì liên quan đến Người trong tất cả
Sách Thánh. (28) Khi gần tới làng họ
muốn đến, Đức Giê-su làm như còn
phải đi xa hơn nữa. (29) Họ nài ép
Người rằng: “Mời ông ở lại
với chúng tôi, vì trời đã xế
chiều, và ngày sắp tàn”. Bấy giờ
Người vào ở lại với họ
(30) Khi đồng bàn với họ, Người
cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và
bẻ ra trao cho họ. (31) Mắt họ liền mở
ra và họ nhận ra Người, nhưng Người
lại biến mất. (32) Họ mới bảo nhau:
“Dọc đường, khi Người nói
chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng
ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng
cháy lên sao ?” (33) Ngay lúc ấy, họ đứng
dậy, quay trở về Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm
Mười Một và các bạn hữu
đang tụ họp lại đó (34) Những người
này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi,
và đã hiện ra với ông Si-mon” (35) Còn
hai ông thì thuật lại những việc đã
xảy ra dọc đường, và mình đã
nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ
bánh.
2. Ý CHÍNH : CHÚA PHỤC SINH
ĐỒNG HÀNH VỚI HAI MÔN ĐỆ :
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Phục
Sinh đã hiện ra đồng hành với hai môn đệ
đang chán nản bỏ về quê là làng Em-mau. Nhờ nghe Lời
Chúa mà hai người này từ tâm trạng bị vấp
ngã trước mầu nhiệm thập giá (18
và 21), đã lấy lại đức tin (25-27.32).
Hơn nữa họ còn nhận ra Chúa Phục Sinh khi tham dự
lễ nghi bẻ bánh (30-31). Rồi nhờ đức tin mà
họ đã lập tức trở về Giê-ru-sa-lem để
loan báo Tin Mừng cho anh em.
3. CHÚ THÍCH :
- C 13-16 : + Cùng ngày hôm ấy :
Tức là ngày Thứ Nhất trong tuần. +
Có hai người trong nhóm môn đệ : Hai
môn đệ này thuộc nhóm 72 (x. Lc 10,1), không thuộc
nhóm 12. Tin Mừng nhắc đến tên một
trong hai ông là Cơ-lê-ô-pát (18). Còn ông thứ hai không
được nêu tên và được suy đoán là chính
Lu-ca, tác giả đã tường thuật câu chuyện này.
+ Làng Em-mau : Một nơi cách Giê-ru-sa-lem khoảng
11 km về phía Tây. Nhưng cho tới nay các nhà
chú giải vẫn chưa xác định được
vị trí của ngôi làng này. + Họ trò
chuyện với nhau về tất cả những sự
việc mới xảy ra : Biến cố tử
nạn của Đức Giê-su là mối bận tâm
sâu đậm của các môn đệ, đến nỗi
dù đang buồn chán thất vọng, các ông
vẫn bàn tán với nhau đang khi đi đường.
+ Chính Đức Giê-su tiến đến gần
và cùng đi với họ : Đức
Giê-su Phục Sinh luôn yêu thương và quan tâm đến
các môn đệ. Khi họ gặp hoàn cảnh
khó khăn nan giải, thì Người liền hiện
đến để ban ơn nâng đỡ. + Mắt
họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người
: Bị ngăn cản có thể do tâm trạng buồn
sầu thất vọng, nên không nghĩ người khách
lạ kia lại có thể là Thầy Giê-su của
họ. Cũng có thể do khuôn mặt Đức
Giê-su Phục Sinh đã được biến dạng khác
với khi còn sống. Trước đó vào
sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần, bà
Ma-ri-a Mác-đa-la cũng đã không nhận ra Chúa
khi Người hiện ra bên mộ đã an táng Người.
- C 17-18 : + “Các anh vừa đi vừa
trao đổi với nhau về chuyện gì vậy
?” : Chúa Phục Sinh chủ động bắt
chuyện để các ông dễ dàng tâm sự
những lo buồn chất chứa trong lòng. +
Chắc ông là người duy nhất trú ngụ
tại Giê-ru-sa-lem… : Các ông nghĩ đây là một
khách hành hương lên Giê-ru-sa-lem dự lễ
Vượt Qua, và không quan tâm đến một biến
cố lớn mới xảy ra trong thành mấy
ngày qua.
- C 19-21 : + Chuyện ông Giê-su Na-da-rét…
: Cho đến lúc này, các môn đệ mới
công nhận Đức Giê-su là Ngôn sứ có
quyền lực trong lời rao giảng và các
phép lạ đã làm. Các ông đi theo Người
với hy vọng có được một địa
vị trong Vương quốc của Người. +
Thế mà các thượng tế và thủ
lãnh của chúng ta đã nộp Người
để Người bị án tử hình
: Sự kiện mới xảy ra đã làm
các ông chán nản thất vọng : các nhà
lãnh đạo dân Ít-ra-en đã nộp Người
để quan Phi-la-tô kết án đóng đinh thập
giá. Còn Thiên Chúa thì không làm gì
để cứu vị Ngôn sứ của Người.
Sự việc xảy ra tới nay đã sang ngày
thứ ba rồi !
- C 22-24 : + Cũng có mấy người
đàn bà trong nhóm chúng tôi… : Tâm trạng
của các ông vẫn hoang mang, dù mấy phụ nữ
và các Tông đồ đã nhìn thấy mồ
trống, và thiên thần hiện ra bảo rằng
“Người vẫn còn sống”, nhưng riêng các
ông này thì cho điều đó thật khó tin. Câu này
cho thấy hai môn đệ này không phải thuộc loại
người dễ tin. Do đó, một khi họ
tin thì chắc đã phải có những
bằng chứng xác đáng không thể phản
bác được.
- C 25-27 : + Ôi những kẻ tối
dạ, những lòng chậm tin vào lời
các ngôn sứ ! : Lời Chúa quở
trách đức tin yếu kém của hai ông có
hơi nặng nề, nhưng thực ra vẫn hàm
chứa một tình cảm âu yếm. + Nào
Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ
hình như thế, rồi mới vào trong vinh
quang của Người sao ? : Chúa Giê-su nhắc
lại lời Người đã từng báo
trước về số phận của Người
trước đó: “Con Người phải chịu
đau khổ, bị các kỳ mục, thượng
tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết,
và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22;
17,25). + Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và
tất cả các ngôn sứ… : Luật Mô-sê và
sấm ngôn của các ngôn sứ ám chỉ tòan bộ
Thánh Kinh Cựu Ước, đã làm chứng
về con đường cứu thế mà
Đức Giê-su đã chọn theo là : « Qua
đau khổ vào trong vinh quang » (x. Lc 24,44 tt).
- C 28-31 : + Đức Giê-su làm như
còn phải đi xa hơn nữa : Thái
độ giả vờ ở đây không phải là
giả dối, nhưng là cách thức thử
xem phản ứng của các môn đệ, để
biết các ông có thực lòng muốn nghe và
muốn Người ở lại với mình hay
không. Một đức tin chỉ có giá trị
khi người tin tự nguyện mở lòng
đón nhận, chứ không chấp nhận do bị
ép buộc. + Họ nài ép Người :
Đây là thái độ hiếu khách quen thuộc
của Người Pa-lét-tin (x. Lc 14,23). Chính Lời
Chúa giải thích Kinh Thánh đã đánh
tan những lo lắng bất an trong lòng hai môn
đệ, nên các ông đã xin Người ở
lại nhà các ông để có thể tiếp tục nói
chuyện với các ông. + Mời ông ở lại
với chúng tôi, vì trời đã xế
chiều, và ngày sắp tàn : Đây là
lời hai môn đệ mời vị khách lạ
kia ở lại cách khép léo tế nhị. Đây
cũng là lời cầu nguyện chân thành của
các tín hữu trước khi được hiệp
lễ.
- C 32-31 : + Khi đồng bàn với
họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời
chúc tụng và bẻ ra trao cho họ : Khó có
thể nghĩ rằng Đức Giê-su đã
truyền phép Thánh Thể như Người đã
làm trong bữa Tiệc Ly. Nhưng ở đây,
Lu-ca cố ý dùng kiểu nói quen thuộc trong
phụng vụ Thánh Thể (x. Lc 22,19), là cử
chỉ Đức Giê-su đã làm khi nhân bánh ra
nhiều (x. 9,16), ám chỉ nghi lễ Bẻ Bánh (x.
Cv 2,46; 20,7.11). Sau này mỗi khi tham dự thánh
lễ, các tín hữu cũng được
nghe lời Chúa giáo huấn và được
tham dự bàn tiệc Thánh Thể như hai môn
đệ hôm nay. + Mắt họ liền mở ra
và họ nhận ra Người : Tiến trình
đức tin của các tín hữu cũng
bắt đầu từ việc lắng nghe Lời
Chúa, rồi tin theo Chúa và được
thánh hóa nhờ tham dự bàn tiệc
Thánh Thể, như bà Ly-đi-a thời Giáo
Hội sơ khai (x. Cv 24,13-15). + Nhưng Người
lại biến mất : Từ đây Chúa Giê-su
sẽ hiện diện cách thiêng liêng vô hình khi các
tín hữu đọc Thánh Kinh, nghe lời
giảng của các mục tử, tham dự thánh
lễ và phục vụ bác ái…
- C 32-35 : + Lòng chúng ta đã
chẳng bừng cháy lên sao ? : Nhờ
được nghe giảng Thánh Kinh, các môn
đệ đã thấy được ý nghĩa
cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su như một
chặng đường Người phải trải
qua để vào trong vinh quang phục sinh. + Ngay lúc
ấy, họ đứng dậy… : Việc nhận
ra Chúa Phục Sinh và lòng tin yêu Chúa đã
biến đổi hai môn đệ từ chỗ thất
vọng muốn buông xuôi, trở thành con người
mới đầy phấn khởi và hy vọng. Tâm
trạng ấy làm các ông hăng hái đi lại
quãng đường dài 11 cây số trở
về Giê-ru-sa-lem để báo tin vui cho các tông
đồ và môn đệ khác. + Chúa trỗi
dậy thật rồi, và đã hiện ra với
ông Si-mon : Sự kiện Si-mon Phê-rô được
Chúa Phục Sinh hiện ra trước các tông
đồ khác đã được chính
Chúa Giê-su tiên báo trước cuộc khổ nạn
(x Lc 22,31-32) và sau này cũng được
thánh Phao-lô nhắc đến trong thư Cô-rin-tô (x 1 Cr
15,5). + Thuật lại những việc đã xảy
ra dọc đường : Cuối cùng hai ông
đã chia sẻ niềm vui Phục Sinh cho Nhóm Mười
Một tông đồ và các môn đệ ở
Giê-ru-sa-lem.
4. CÂU HỎI : 1) Hai môn đệ quê làng
Em-mau kể trên thuộc nhóm 12 tông đồ hay nhóm
72 môn đệ ? Tên của các ông là gì ? 2) Tại
sao hai môn đệ làng Em-mau và bà Ma-ri-a Mác-đa-la
lại không nhận ra ngay người đang nói
chuyện với mình là Chúa Phục Sinh ? 3)
Việc Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn
đệ làng Em-mau nói lên điều gì về
tình yêu của Người đối với các
tín hữu chúng ta ? 4) Câu trả lời của
hai môn đệ cho thấy đức tin của các
ông về sứ mạng của Đức Giê-su thế
nào ? Các ông đi theo Đức Giê-su nhằm
mục đích gì ? Tại sao giờ đây các
ông lại chán nản tuyệt vọng ? 5) Hai môn đệ
này có phải là những người
dễ tin vào mầu nhiệm sống lại của Chúa
Giê-su không ? Tại sao ? 6) Chúa Giê-su trong vai khách bộ hành
đã làm gì để củng cố đức
tin còn non yếu của hai môn đệ ? 7) Chúa Giê-su
giả vờ muốn đi xa hơn nhằm mục
đích gì ? 8) Câu nào của hai môn đệ là
lời cầu nguyện mẫu về lòng tin yêu Chúa
cho các tín hữu chúng ta hôm nay ? 9) Hai môn
đệ đã nhận ra người khách lạ
chính là Thầy Giê-su Phục Sinh khi nào ? 10) Hai
ông cho biết lòng mình bừng cháy lên ngọn
lửa tin yêu Chúa vào lúc nào ? 11) Điều
gì khiến hai môn đệ vội vã đi loan báo
Tin Mừng Phục Sinh cho anh em?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : Họ mới bảo
nhau : “Dọc đường khi Người nói
chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng
ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng
cháy lên sao ?” (Lc 24,32)
2. CÂU CHUYỆN :
1) TIN CẬY VÀO QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA
:
Được thăng giáo hoàng là một việc
rất trọng đại. Khi Đức Pi-ô XI
đăng quang, sau khi thực hiện xong các lễ nghi rồi,
ngài về phòng riêng, ngồi vào chiếc bàn viết của
Đức tiên Giáo hoàng Bê-nê-dic-tô XV, thì tự nhiên ngài cảm
thấy một mối lo âu ập xuống trên mình, vì tình
hình Giáo hội khi ấy đang bị kẻ thù tấn công
tư bề, Hội Thánh đang trải qua một giai
đoạn thử thách mới : Tuy Thế Chiến
Thứ Nhất đã chấm dứt, nhưng Thế chiến
Thứ Hai lại đang âm ỉ và có thể xảy ra bất
cứ lúc nào. Nghĩ đến những chuyện ấy, lòng
Đức Pi-ô XI ngập tràn lo âu. Bấy giờ ngài qùi gối
trước Thánh Giá và cầu nguyện sốt sắng.
Đang lúc cầu nguyện, tự nhiên tay ngài chạm vào một
tấm ảnh đặt trên bàn làm việc của Đức
tiên giáo hoàng, ngài liền cầm tấm ảnh lên xem và nỗi
lo sợ trong lòng trước đó tự nhiên biến mất.
Ngài cảm thấy tâm hồn được bình an. Đó
là bức hình vẽ Chúa Giê-su đang đứng trên mũi
thuyền và ra lệnh cho sóng gió yên lặng. Từ ngày
đó, Đức Pi-ô XI luôn để bức ảnh ấy
trên bàn làm việc, và mỗi khi gặp hoàn cảnh khó
khăn không biết phải làm gì, Đức Pi-ô XI lại
ngồi nhìn vào bức ảnh rồi cầu xin Chúa Giê-su hãy
phán một lời, thế là mọi khó khăn đang gặp
đều tự nhiên tan biến (W.J. Diamond- Đồng cỏ
non).
2) CHÚA BỒNG TA TRÊN ĐÔI TAY CỦA
NGƯỜI ?
Một người tân tòng sau khi theo đạo
đã gặp phải nhiều tai ương hoạn
nạn : bệnh tật, rủi ro mất xe, mất tiền
bạc… Anh đã nhiều lần xin Chúa cho tai qua
nạn khỏi mà xem ra Chúa vẫn ngỏanh mặt
làm ngơ khiến anh đâm ra chán nản và
thôi không cầu nguyện và cũng không đến nhà
thờ dự lễ nữa. Thế rồi một
đêm kia, anh nằm mơ thấy mình đang
đi bách bộ với Chúa Giê-su trên bãi biển.
Anh quay nhìn ra sau thì thấy trên nền cát ướt
có 4 dấu chân : hai dấu chân lớn của Chúa,
và hai dấu chân nhỏ của anh. Khi gặp chỗ
lởm chởm nhiều sỏi đá thì
anh không thấy Chúa đi bên cạnh nữa. Quay lại
nhìn thì anh chỉ thấy hai dấu chân trên cát
của anh. Anh chán nản ngồi nghỉ mệt trên một
tảng đá thì Chúa Giê-su lại hiện
đến ngồi bên. Anh thắc mắc hỏi Người
: “Lạy Chúa, vừa qua Chúa biến đi
đâu để con phải một mình đương
đầu với những khó khăn như vậy
?” Bấy giờ Chúa Giê-su mới âu yếm nhìn
anh và nói : “Con hãy thử nhìn kỹ lại
xem hai dấu chân trên cát kia là của ai ?” Lúc
đó, anh ta mới nhìn kỹ và nhận ra
đó hai dấu chân to là của Chúa Giê-su. Anh lại
hỏi : “Lạy Chúa, thế thì dấu chân của
con đâu ?” Chúa liền trả lời : “Con ơi,
hãy nhớ rằng : Ta luôn ở bên con mọi
giây phút trong cuộc đời con. Chính khi con gặp
gian nan thử thách là lúc Ta đang bồng con trên cánh
tay Ta đó !”
3) CHÚA ĐẾN VỚI CHÚNG TA QUA THA NHÂN CẦN
ĐƯỢC TRỢ GIÚP :
Vào một buổi sáng cuối đông, bác thợ giầy
thức dậy rất sớm dọn dẹp nhà cửa và
cho thêm củi than vào lò sưởi để đón chờ
khách quý là Chúa Giê-su. Người đã hiện ra với bác
trong giấc mơ ban đêm và hứa sẽ đến nhà
thăm bác vào ngày hôm sau. Khi ánh bình minh vừa ló rạng, thì
bác thợ giầy đã nghe thấy
có tiếng gõ ngoài cửa. Tưởng là Chúa đã đến,
bác liền vội ra mở cửa. Thế nhưng kẻ
đứng mặt bác không phải là Chúa Giê-su, mà là anh phát
thư như mọi lần. Băng tuyết ngoài trời
khiến mặt mũi và tay chân của anh ta đỏ lên
như gấc. Bác thợ giầy cảm thông liền mời
anh ta vào nhà ngồi bên lò sưởi và pha trà nóng mời khách.
Sau khi đã được sưởi ấm, người
phát thư đã nói lời cám ơn và từ giã đi lo công
việc.
Ít phứt sau, nhìn qua khung cửa kính, bác thấy một
bé gái khoảng 7-8 tuổi đang co ro đứng trước
cửa nhà khóc, bác liền ra hỏi thăm thì được
biết em bị lạc mẹ ngoài chợ và đang tìm
đường về nhà nhưng không tìm thấy đường
vì tuyết rơi trắng xóa. Bác thợ giầy liền lấy
bút viết vài chữ trên tờ giấy và gắn ngoài cửa
nhà để thông báo cho Chúa Giê-su biết mình cần
đi ra ngòai một lát. Nhưng tìm đường dẫn
cô bé về nhà không đơn giản. Mất mấy tiếng
đồng hồ bác mới tìm được nhà của
đứa bé, và khi ra về thì trời đã xế chiều.
Về đến nhà, bác lại thấy có người
đang ngồi đợi nhưng không phải là Chúa, mà là
một bà mẹ trẻ gần nhà với vẻ mặt buồn
bã. Chị cho biết đứa con nhỏ của chị
đang lên cơn sốt ở nhà và chị chạy sang tìm
bác để nhờ giúp đưa bé đi nhà thương.
Bác thợ giầy liền hối hả theo chị về
nhà giúp đưa cháu bé đến bệnh viện chăm sóc.
Nửa đêm bác mới trở về nhà mình và nằm
lăn ra giường ngủ quên cả việc ăn uống.
Trong giấc mơ, bác thợ giầy đã nghe thấy tiếng
Chúa Giê-su : « Hôm nay Ta cám ơn con đã sẵn sàng tiếp
đón và cho Ta vào nhà để sưởi ấm và còn dọn
trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn Ta bị lạc
có thể trở về nhà mình. Cám ơn con đã giúp đưa
Ta đến bệnh viện để kịp thời thuốc
thang chữa trị ». Thì ra hôm nay Chúa Giê-su đã giữ lời
hứa đến thăm bác thợ giầy không phải một
mà là ba lần. Người hiện thân qua những người
cần được trợ giúp như Người đã
nói : « Mỗi lần các ngươi làm như thế cho
một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây,
là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy » (Mt 25,40).
4) TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CỦA
CHÚA :
Một sĩ quan công giáo, người Anh được
sai đến phục vụ tại một nơi xa xôi hẻo
lánh. Ông cùng với gia đình xuống tầu đến nhiệm
sở mới. Tầu rời bến được vài ngày
thì biển động dữ dôi. Một cơn bão ập
đến làm tầu có nguy cơ bị đắm. Mọi
người trên tầu hết sức sợ hãi. Bà vợ của
vị sĩ quan là người mất bình tĩnh hơn cả
vì bà đã không tiếc lời trách móc chồng đã
đưa cả gia đình vào mối nguy hiểm, nhất
là khi thấy chồng vô tư chẳng mấy quan tâm. Chính
thái độ bình thản của chồng khiến bà càng
thêm tức giận.
Trước tình thế đó, sau khi nói mấy lời an
ủi vợ, viên sĩ quan đã rời căn phòng và một
lát sau quay lại với thanh kiếm tuốt trần
trên tay. Bằng ánh mắt đau khổ ông tiến lại
bên vợ và dí mũi kiếm vào ngực bà. Mới đầu
bà ta tái xanh mặt mày, nhưng sau đó bà bỗng cười
không chút nao núng sợ hãi. Viên sĩ quan hỏi :
- Làm sao mình có thể cười khi sắp bị mũi
kiếm đâm vào ngực ?
- Tại sao em lại phải sợ khi lưỡi kiếm
ấy trong tay của người chồng rất mực yêu
em.
Bấy giờ viên sĩ quan liền nghiêm giọng giải
thích :
- Vậy tại sao em lại muốn anh phải sợ cơn
bão tố này, khi biết nó nằm trong bàn tay quan phòng của
Thiên Chúa là Đấng quyền năng và hằng yêu thương
anh ?
3. SUY NIỆM
:
1) TÂM TRẠNG CỦA HAI MÔN ĐỆ LÀNG
EM-MAU :
Đây là hai trong số 72 môn đệ của Đức
Giê-su đã được Người sai từng hai người
đi giảng đạo (x. Lc 10,1a). Hai ông đã đến
Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Giờ đây đại
lễ đã xong, hai ông quay trở về nhà riêng tại làng
Em-mau. Một trong hai ông tên là Cờ-lê-ô-pát, còn người
kia không được nêu tên, có thể là chính tác giả
Lu-ca. Hai ông này vừa đi vừa trò chuyện với nhau
với vẻ mặt buồn bã thất vọng. Sở dĩ
họ mang tâm trạng như thế là vì mấy lý do như
sau :
- Một là Đức Giê-su «là một Ngôn sứ
đầy uy thế trong việc làm cũng như lời
nói trước mặt Thiên Chúa và toàn
dân. Thế mà các thượng tế và thủ
lãnh của chúng ta đã nộp Người
để bị án tử hình, và đóng
đinh Người vào thập giá » (Lc
24,19b-20).
- Hai là biến cố đau thương của Đức
Giê-su đã xảy ra trái với ước vọng của
các ông khi đi theo Thầy, khiến các ông hoàn toàn thất vọng
và muốn buông xuôi : « Phần chúng tôi, trước
đây vẫn hy vọng rằng chính Người
là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Nhưng
các sự việc ấy đã xẩy ra đến nay là
ngày thứ ba rồi » (Lc 24,21).
2) VAI TRÒ CỦA KINH THÁNH VÀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ CỦNG CỐ
ĐỨC TIN :
- Biến cố tử nạn của Đức
Giê-su là mối bận tâm sâu đậm của các
môn đệ, đến nỗi dù đang buồn chán
thất vọng, các ông vẫn bàn tán với
nhau khi đi đường. Đức Giê-su Phục
Sinh đã yêu thương và luôn quan tâm đến các
môn đệ, nên Người đã chủ động
hiện đến đồng hành bắt chuyện và giải
thích cho hai ông những gì liên quan đến Người
trong Sách Thánh.
Nhờ cảm nghiệm được Lời Chúa nên
các ông đã lấy lại niềm tin qua câu nói : “Lòng
chúng ta đã chẳng bừng cháy lên
khi dọc đường, Người nói chuyện
và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó sao
?” (Lc 24,32).
- Tuy nhiên hai môn đệ chỉ
nhận ra Người khi tham dự bí tích Thánh Thể :
Hai ông đã mời Người
ở lại : “Mời ông ở lại với
chúng tôi, vì trời đã xế chiều,
và ngày sắp tàn (Lc 24,29). Rồi chính bầu khí yêu thương
chia sẻ Bánh Thánh giữa cộng đoàn mà mắt họ
đã mở ra, như Tin Mừng thuật lại: « Khi
đồng bàn với họ, Người cầm
lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ
ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và
nhận ra Người, nhưng Người lại
biến mất » (Lc 24,30-31).
3) ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA TRONG CUỘC
SỐNG :
Trong cuộc sống, mỗi lần gặp phải
thử thách, nhiều người trong chúng ta thường
nghĩ rằng : Chúa đã bỏ rơi mình
rồi. Chúa không còn quan tâm giúp mình nữa…
và từ đó sinh ra chán nản, bỏ bê
đọc kinh cầu nguyện, lười biếng dự
lễ Chúa Nhật và có khi còn mê tín dị
đoan : đi coi bói tóan, cậy nhờ sự giúp
đỡ của thầy bùa thầy ngải… Chúng
ta cần xác tín rằng : Chúa Phục Sinh vẫn luôn
đồng hành với chúng ta. Không những Người
ở bên ta khi ta được bình an, mà
ngay cả những lúc ta gặp gian nan khốn khó như
bị bệnh tật, tai nạn, thất bại… Người
vẫn ở bên và đồng hành với chúng ta.
Người sẵn sàng trợ giúp và bồng ẵm
ta trên tay nếu ta biết tín thác cậy trông vào Người.
Hãy siêng năng tham dự thánh lễ để được
nghe Lời Chúa giáo huấn và được kết hiệp
mật thiết với Chúa Thánh Thể khi lên rước lễ.
4) SỐNG VÀ LOAN BÁO TIN MỪNG CHO THẾ
GIỚI HÔM NAY :
- Hai môn đệ làng Em-mau sau khi gặp Chúa đã lập
tức trở về Giê-ru-sa-lem để chia sẻ Tin Mừng
Phục Sinh cho cộng đoàn.
- Loan báo Tin Mừng hôm nay không những là chia sẻ niềm
tin yêu cho tha nhân bằng đời sống quên mình vị
tha và khiêm nhường phục vụ, mà còn là sự thực
thi bác ái cụ thể như kinh « Thương Người
có mười bốn mối » đã dạy. Nhờ
đó đến ngày phán xét chúng ta sẽ được Chúa
đón nhận vào hưởng hạnh phúc đời đời
trong Nước Trời như lời Chúa phán : “Nào những
kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương
Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở
tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi
đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là
khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng,
các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi
đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến
hỏi han.” (Mt 25,34-36).
4. THẢO LUẬN: Khi gặp một người
lỡ đường xin tá túc ban đêm,
chúng ta nên làm gì để vừa bảo
đảm an toàn cho gia đình, vừa thực
hành bác ái “Cho khách đỗ nhà” như
kinh Thương Người đã dạy ?
5. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ở lại với chúng
con, vì trời đã xế chiều và ngày
sắp tàn rồi, vì lòng chúng con
đang khao khát được nghe lời Chúa.
Xin ở lại với chúng con, vì đức
tin chúng con mỏng dòn yếu đuối, rất
cần được Chúa trợ giúp vượt
qua khó khăn của cuộc đời. Xin ở
lại với chúng con, vì chúng con dễ sa
chân lạc bước, chỉ biết tìm kiếm
thỏa mãn những đam mê bất chính và dễ
chán nản buông xuôi khi gặp thử thách
gian nan. Xin ở với chúng con, để chúng
con thấy Chúa đang hiện diện nơi những
người đau khổ và chân thành phục
vụ họ như phục vụ chính Chúa. Xin ở
lại với chúng con, vì khi gặp được
Chúa, chúng con sẽ được ơn biến
đổi cuộc đời. Xin ở lại với
chúng con, vì tâm hồn chúng con vẫn còn xao
xuyến mãi, cho tới khi nào được
nghỉ yên trong Chúa.- AMEN.
LM ĐAN VINH
- HHTM
|