CHƯƠNG 8: NĂM LÁ THƯ
Trong chương này, tôi
muốn trích vài đoạn từ những lá thư sau
cùng mà tôi gửi đến gia đình, họ hàng và bạn
bè. Những trang này sẽ cho thấy tổng quát tinh
thần rao giảng Tin Mừng của chúng tôi, trong những
năm gần nhất.
*
* *
Sanchez 30-12-1980
Ba má và các bạn thân
yêu!
Tôi muốn kể vài
mẩu chuyện về cuộc hành trình sang Phi Châu, Cameroun và Sênegal.
Tôi khởi hành từ
Saint-Domingo ngày 04-12. Sau 18 giờ bay, tôi đến Cameroun hồi 7 giờ tối,
quá mệt mỏi. Lúc ấy, tôi chỉ mong chóng được
nằm nghỉ trên một chiếc giường êm
ấm. Nhưng có một chuyện “bất ngờ lý
thú” ở phi cảng. Khi tôi trình giấy thông hành, nhân
viên bảo tôi thiếu hộ chiếu. Tôi đáp: ở
Saint Đômingô, người ta quả quyết với tôi là
một người Canada không cần hộ
chiếu để đến Cameroun. Tôi nói mãi, nhưng lý lẽ
tôi không thuyết phục được các nhân viên, vì
luật cũ ấy mới thay đổi. Và người
ta nói:
- Ông không thể ra khỏi
Phi Cảng hôm nay. Ông sẽ nghỉ đêm tại đây,
để ngày mai trở về Thụy Sĩ lấy hộ
chiếu, rồi ông có thể quay lại đây.
Thụy Sĩ à? Lại phải
mất 7 giờ bay nữa! Một đôi vợ chồng
người Pháp cũng gặp trường hợp
tương tự. Song họ thản nhiên và chắc
bụng sẽ được nhập cư, vì họ
đã trình bày vấn đề nhờ Tòa đại sứ
Pháp ở đây can thiệp. Tôi chạy đến Chúa và
cầu nguyện:
- Con chẳng có ai
để cậy nhờ ngoài Chúa. Nếu chính Chúa
đã sắp đặt các cuộc tĩnh tâm này,
thì Chúa sẽ mở cửa nước này cho con vào. Còn
nếu không phải Chúa sắp đặt công việc
ấy, thì con cũng chẳng vào đây làm gì nữa.
Con đặt tất cả mọi sự trong tay Chúa.
Rồi tôi cầu nguyện
một lúc trong tiếng lạ. Đang khi ấy, người
ta đặt một viên công an to và khoẻ bên cạnh tôi,
như sợ tôi có thể chạy trốn. Tôi nghĩ
bụng: nếu mình không thể rao giảng Tin Mừng
ở Cameroun đây, ít ra mình cũng có thể
rao giảng Tin Mừng cho anh công an Hồi giáo này. Và tôi
bắt đầu nói với anh về Chúa Yêsu, và các việc
kỳ diệu Ngài đã làm.
Sau nửa đêm, anh công an
buồn ngủ hơn tôi. Chính lúc ấy, có một cú
điện thoại từ cấp trên ra lệnh phải
cho tôi nhập cư. Hóa ra một Sư huynh Lasan đã
vận động đủ mọi cách, để cho tôi
được hộ chiếu 15 ngày. Tôi đã được
ngủ trên chiếc giường dành cho tôi. Sáng hôm sau, tôi lại
ra sân bay để đi chuyến khác. Đôi vợ
chồng người Pháp vẫn còn ở đó, mặt mày ủ
dột và mệt mỏi vì mất ngủ. Họ không
được nhập cư và phải trở về Paris. Lợi dụng cơ hội,
tôi nói với họ:
- Tôi đã không đặt
công việc trong tay người trần, nhưng trong tay
Thiên Chúa và tôi đã được vào. Thiên Chúa chúng ta
quyền phép hơn Tòa Đại sứ Pháp.
Kinh nghiệm đầu
tiên về cuộc rao giảng Tin Mừng ở Phi Châu
rất tốt đẹp. Tôi tưởng như đang ở
trên đất Cộng Hòa Đôminicana. Gương mặt
người bản xứ rất đơn sơ,
tươi vui; tính tình họ rất dễ mến
và cởi mở. Cũng cùng một bầu khí, cùng một
cảnh vật và cùng một Thiên Chúa hoạt động
bằng những việc kỳ diệu của Người.
Chiều thứ bảy,
chúng tôi cử hành Thánh Lễ cầu cho bệnh nhân, và Thiên
Chúa khởi sự ban những dấu lạ và kỳ công
như ở Pimentel năm 1975. Chúng tôi đã chứng
kiến nhiều việc chữa lành lạ lùng.
Trong số đó, có trường
hợp một bé gái 5 tuổi, bịliệt không đi
được, và nhờ ơn Chúa, đã đi được
từ hôm ấy. Ngày hôm sau, vào cuối buổi lễ tại
nhà thờ Chánh Tòa, tôi mời người mẹ của em
bé lên làm chứng trước cử tọa. Rồi xin
em bé bước đi trước mặt mọi
người, đối diện với bàn thờ. Em
bé làm y như vậy, người ta xúc động khóc
lóc và ngợi khen Thiên Chúa. Cả thánh đường bùng vỡra
trong tiếng vỗ tay như sấm: Chúa Yêsu đang
sống tại Phi Châu!
Trong kỳ tĩnh tâm, phúc
lành lớn nhất mà tôi được thấy, là trường
hợp một cha thừa sai đã có ý định bỏ
chức vụ linh mục để lập gia đình.
Mấy người bạn mời ông đến dự
tuần giảng tĩnh tâm trước khi dứt khoát. Ông
đã nhận lời và thế là Chúa đã vớt ông lại.
Ông đã dâng lại trái tim mình cho Chúa và khẳng
định lại ý muốn theo Chúa, tiếp tục
thi hành chức vụ linh mục.
Tuần tĩnh tâm kết
thúc bằng một Thánh Lễ ngoài trời với 3.000
người tham dự. Có 38 linh mục đồng tế,
và Chúa vẫn phù trợ việc rao giảng Lời,
bằng những dấu lạ và kỳ công mới. Qua
một lời thông tri, Chúa nói cho biết:
- ở đây, có một
thiếu niên 16 tuổi bịđiếc tai trái mà Chúa sẽ
chữa.
Sau lễ, một thiếu
niên đến gần bàn thờ và nói: chính cậu 16
tuổi, là người bịđiếc ấy, mà Chúa vừa
chữa lành. Tất cả cử tọa đều ngợi
khen Chúa.
Hôm sau, tiếp diễn các kỳ
công của Chúa trong nhà thờ ở Yaoundê. Một nữ
nhân viên ngân hành bịcận thị13 năm, đã
được Chúa chữa lành. Ngày hôm sau, chịthuật
phép lạ cho tất cả các bạn đồng nghiệp.
Họ vẫn thường thấy chịđeo đôi
kính cận thịdầy cộm, từ nay sẽ
quẳng đi, không cần nữa; nên cả nhóm họ
đến dự Thánh Lễ. Hôm ấy, có tới hơn
3.000 người dự, bắt buộc chúng tôi phải
đem bàn thờ ra ngoài trời, vì trong nhà thờ không
đủ chỗ. Đang buổi lễ, một bé gái
được khỏi cánh tay trái bịbại. Một nhân
viên cảnh sát cảm thấy được ngơi
nghỉ trong Thánh Thần, và được khỏi chứng
đau cột sống. Một Mẹ Bề Trên một dòng ở
Phi Châu cũng cảm nghiệm được sự
bình an của Thánh Thần, và được lành các
vết loét. Các ơn lành bệnh rất nhiều, không
thể kể hết.
Trong vài ngày, chúng tôi đã
được thấy tất cả các dấu chỉ giúp
nhận ra Đức Yêsu là Đấng Cứu Thế: mù
được thấy, điếc được nghe và
các người nghèo khó được rao giảng Tin Mừng.
Đoạn, tôi đến
Sênêgal, ở đó xảy ra mười mấy việc chữa
lành, để nhắc cho dân ấy biết rằng
Chúa Yêsu đang sống. Khi tận mắt thấy những
kỳ công của Chúa và sự đáp ứng nồng nhiệt
của dân chúng, một vịthừa sai dòng Thánh Tâm nói với
chúng tôi:
- Đó chính là
điều ở đây chúng tôi cần. Tôi đã biết
thế nào Chúa cũng đến giữa chúng tôi như
thế, vì khi các người Hồi giáo thấy Chúa
Yêsu làm các phép lạ, họ sẽ tin rằng Ngài
đang sống và Ngài còn hơn một tiên tri.
Và vịthừa sai không ngừng
lập lại câu ấy khắp nơi, khi nói về các
việc lành bệnh đã làm nảy sinh và tăng trưởng
đức tin nơi dân chúng. Nhưng, có nơi nào trên
thế giới lại chẳng cần đến các
phép lạ như thế? Tôi thấy mọi nơi
đều cần.
Ông quận trưởng
thành phố Sangmelima, một tín đồ Tin Lành, đã
đích thân đến chào tạm biệt tôi và cám
ơn, vì vợ ông đã lành bệnh gan, em gái của bà
cũng được khỏi bệnh loạn tuần hoàn
máu. Ông rất cảm động và đem biếu tôi một
món “quà nhỏ”, kỷ niệm lần tôi đến
Sangmelima: đó là một chiếc ngà voi thứ thiệt.
Chiếc ngà voi ấy không
nằm trong vali được. Tôi gói nó riêng ra, và
tiếp tục cuộc hành trình. Song phải trả
thêm tiền cước phí, vì nó rất nặng.
Tôi suýt quên nó trong máy bay. Một tay xách vali, một tay
xách “cái món quà nhỏ” đó, nên vướng víu và
tốn kém lắm.
Đến địa
điểm mới, một chuyên viên về ngà tấm
tắc khen:
- Thưa cha, chiếc
ngà voi này rất quý giá. Tôi hy vọng cha sẽ không bịphiền
hà ở phi cảng, vì ở đây luật buôn bán ngà
voi rất nghiêm ngặt.
Thế là nếp sống của
tôi bịxáo trộn, tôi phải mua thêm một vali riêng, và giữ
gìn nó cẩn thận hơn các vali khác. Càng ngày, tôi càng gặp
rắc rối ở các phi cảng, phải trả thêm
tiền cước phí, lúc đi cũng như lúc
đến, làm tôi đã phải kêu xin Chúa:
- Chúa ơi! Con đã chứng
kiến những việc Chúa mở mắt người
mù. Lần này, con xin Chúa bịt mắt những ông quan
thuế, để họ đừng nhìn thấy
chiếc ngà voi. Chúa biết: đó là “món quà nhỏ” người
ta tặng con mà!
Khi tới trọ một
nhà nào, tôi phải canh chừng và đôi khi giấu nó dưới
giường. Sau giờ giảng, điều đầu
tiên là tôi cúi xuống tìm chiếc ngà voi. Đôi khi, tôi
ngắm nó giây lát, vuốt ve và xếp nó vào vali cẩn
thận.
Một hôm, đang cầu
nguyện, tôi chợt nghĩ đến cái ngà voi quý
giá với bao lo lắng và phiền toái gây cho tôi từ
khi có nó bên cạnh. Lúc ấy, tôi thở dài lớn tiếng:
- Chúa ơi! Thật Chúa
có lý khi nói: “Phúc cho người nghèo!”, vì
khi chưa có chiếc ngà voi ấy, con đâu phải
rắc rối như bây giờ…
Thế là tôi chỗi
dậy, đem biếu ngay chiếc ngà voi ấy cho vịBề
Trên tu viện tôi đang trú ngụ. Lập tức, bình
an trở lại tâm hồn tôi. Nào những lo lắng,
những cước phí phụ trội, và ngay cả những
chia lòng chia trí trong khi cầu nguyện, tất cả
đều tan biến.
Nhờ bài học ấy,
tôi hiểu được rằng chiếc ngà voi là những
cái người ta gọi là quyền lực, tiền bạc,
danh vọng, của cải, vật chất, v.v… Chúng luôn là
nguồn gốc gây ra sự nô lệ. Tệ hại
nhất là chúng ta lại quỳ lạy những cái đó,
chúng làm ta rời xa Thiên Chúa chân thật. Ôi, các ngà voi ấy
thật phiền hà biết bao! Chúng khiến ta phải trả
thêm cước phí! Chúng đè nặng biết bao!
Nhất là cùng với các ngà voi ấy, ta phải vác cả
con voi nữa!
Là những kẻ đặt
niềm tin cậy nơi Chúa, chúng ta không cần của cải,
vật chất; đó là điều Chúa đã dạy tôi.
Chúa là Chúa Tể mọi sự! Vé máy bay đi Cameroun và
Sênegal mất 1.780 đôla. Bấy nhiên đã quá
đắt, đối với những đất
nước nghèo khổ ấy, nên tôi xin họ đừng
thù lao gì thêm tôi nữa. Trả 1.800 đôla để trả
vé máy bay cho tôi đã đủ rồi! Một linh
mục biết được chuyện ấy nói với tôi:
- Như thế không
được! Cha đã làm việc cật lực, và
người ta chỉ cho cha 20 đôla. Như vậy,
mỗi ngày, cha chưa được công một
đôla.
Tôi đáp:
- Cha đừng lo, Chúa
sẽ bù cho chúng tôi gấp trăm!
Khi về đến xứ
đạo của tôi, một núi thư từ chờ đợi
tôi. Một lá thư nói như thế này:
- Chúng con muốn gửi
cho cha món quà nhỏ, để cha đi rao giảng Tin Mừng.
Câu “món quà nhỏ” làm tôi tức
khắc nhớ đến chiếc ngà voi nọ và tôi
buông rơi lá thư, cuống cuồng lo sợ. Nhưng
đó lại là một ngân phiếu 2.000 đôla. Đúng 100
lần (20 đôla). Tôi rùng mình, không ngờ Chúa Yêsu lại
tính toán sít sao đến thế!
*
* *
La Romana 01-12-1981
Ba má và các bạn thân
yêu!
Chúa Nhật vừa rồi,
lễ Chúa Kitô Vua, chúng tôi cử hành Đại hội Đặc
sủng toàn quốc lần hai ở Saint Đôminicana.
Đến 42.000 người, đại diện cho 1.500
nhóm cầu nguyện của Cộng Hòa Đôminicana. Họ
đứng chật cả Sân Vận động
Điền kinh của Thủ đô, hôm 22 tháng 11, trong một
cuộc biểu dương niềm tin vĩ đại
dâng lên Chúa Kitô Vua.
Chủ đề của
Đại hội là “Chúa Kitô, Vua vũ trụ”. Cảnh
tượng thật phi thường: từ 9 giờ sáng
đến 6 giờ chiều, dưới bầu trời
trong xanh, trong một bầu khí lễ hội, chúng tôi
đã ca hát, cầu nguyện và nghe giảng, trong niềm cảm
mến tình thương của Chúa, Cha chúng ta.
Lúc 11 giờ, đến
lượt tôi nói về “Chúa Yêsu đang sống”, và ngay sau
đó, cùng với cả nhóm của mình, tôi cầu nguyện
xin ơn chữa lành, cho tất cả các bệnh nhân từ
mọi nơi trong nước đông đảo về
đây. Chúa đã chữa lành đặc biệt cho chúng tôi.
Đến 14 giờ 30, giờ làm chứng, rất
nhiều người lên góp lời. Trong số đó, có
trường hợp của một người đàn ông
phải khó nhọc lắm mới đến dự
Đại hội được, và ở đây, ông đã
được hoàn toàn khỏi bệnh. Do bệnh tim, ông bịbán
thân bất toại bên trái, và không thể đi được
nếu không nhờ đôi nạng. Lúc 14 giờ 30, ông tự
mình bước lên giảng đài, không còn cần nạng,
rồi trong tiếng nức nở, ông cảm tạ Chúa vừa
chữa ông lành.
Ngày chính của Đại
hội, Đức Tân Tổng Giám Mục – Đức Cha
Nicolas Yêsu Lopez – đã ban một huấn từ hào hứng,
về cuộc Canh Tân Đặc Sủng trong thế giới
hôm nay. Có một vài linh mục vốn vẫn chống báng dữ
dội cuộc Canh Tân, xem ra rất ngượng ngùng,
trước lập trường vững chắc và
thẳng thắn của Đức Tổng Giám
Mục. Vinh danh Thiên Chúa!
Giờ đây, xin báo cho ba
má và các bạn một tin vui to lớn là, tôi không còn là cha sở
họ đạo Sanchez nữa. Đó là niềm vui, vì
tôi không thể vừa làm cha sở, lại vừa đi giảng
tĩnh tâm khắp nơi trên thế giới. Tháng 4 vừa
qua, tôi đã mãn nhiệm, và bây giờ, tôi được
dành trọn thời giờ để rao giảng. Hiện
nay, tôi ngụ tại họ đạo La Romana mà cha
André Dumas là cha sở. Cha André Dumas chỉ có một
mình lo cho 30.000 giáo dân. Sau những lần đi giảng
về, tôi giúp cha một chút và điều ấy rất có
ích lợi cho tôi, vì cũng cần xen lẫn công việc
mục vụ xứ đạo với việc giảng
tĩnh tâm.
Năm nay, tôi đã làm chứng
nhân cho Chúa Kitô Phục Sinh ở cả năm châu. Bỏ qua
cả ngàn điều quan trọng, tôi chỉ muốn nói
về chuyện sau đây:
Sau những buổi hội
thảo đại kết tại Thụy Sĩ, tôi
đến Lisieux, Mạc-xây và Paray-le-Monial. Rồi tôi trở
về Dominicana, để đến dự cuộc
tĩnh tâm linh mục ở Ceja (Colombia), và cuối cùng
đến cuộc tĩnh tâm ở Monterrey (Mêxicô); ở
đó xảy đến cho tôi một chuyện rất ngộ
nghĩnh.
Giấy thông hành của tôi
đã hết hạn, tôi gởi đến tòa đại sứ
Canada ở Caraca, nước Venezuela, để xin gia hạn.
Ngày đi Mêxicô của tôi đã gần kề, mà giấy
thông hành chưa có. Trước hôm lên đường, tôi
điện thoại đến Caraca, thì được
trả lời là họ đã gửi cho tôi rồi. Chúng tôi
chẳng còn biết làm gì, ngoài việc kiên nhẫn
chờ giấy đến.
Trưa hôm đó, người
ta điện thoại cho tôi từ Monterrey bên Mêxicô, và hỏi
tôi chuyến bay cùng giờ cất cánh. Tôi báo với họ
là ê-kíp của tôi sẽ đến, nhưng không có tôi,
vì tôi chưa được giấy thông hành. Họ vô
cùng bối rối, vì tất cả đã được
chuẩn bị, để đón 14.000 người tham dự.
Họ hứa với tôi là sẽ thức đêm cầu nguyện
và trao phó việc đó cho Chúa.
Hôm sau, tôi ra sân bay mà không có
giấy thông hành. Tôi nói với ông Giám đốc Sở Di
Trú là một người Canada có thể vào Hoa Kỳ với
một bằng lái xe (máy bay sẽ đáp tạm ở
Miami, trước khi bay đến Mêxicô). Ông bảo
tôi:
- Nếu hãng hàng không
Eastern dám nhận cha lên phi cơ của họ, thì tôi
để cha đi.
Tôi quay sang hỏi nhân viên
hãng Eastern, người ấy nói:
- Nếu Sở Di Trú cho
phép cha đi, thì chúng tôi sẽ cho cha lên máy bay.
Tôi nguyện xin với
Chúa:
- Lạy Chúa, chính
Chúa sẽ nhận lấy tất cả mọi cái liều
lĩnh…
Và tôi lên phi cơ đi
Miami. Đến nơi, mọi người đều
xuất trình giấy thông hành, hộ chiếu và
giấy phép di trú. Còn tôi chỉ đưa bằng
lái xe. Nhân viên quan thuế hỏi tôi:
- Cái gì đây?
- Bằng lái xe, tôi
chỉ có thế thôi. Một người Canada có thể vào
Hoa Kỳ với giấy này mà…
Ông thông cảm cho tôi
qua.
Trước khi tiếp
tục chuyến bay đi Mêxicô, viên chức Sở Di Trú,
rất thông thạo mọi luật lệ, nói với tôi
cách giận dữ:
- Cha không thể đi
Mêxicô, cũng như bất cứ nơi nào khác, với các
giấy này, cũng không thể ở lại Miami. Giấy
ấy vô giá trị. Bất cứ ai cũng có thể xin
được bằng lái xe ở Canada, và việc
đó không có nghĩa là họ là người Canada. Người
ta đến Hoa Kỳ với giấy căn cước,
chứ không với bằng lái xe. Không bao giờ người
ta sẽ cho cha vào Mêxicô, người ta sẽ bắt cha
trở về.
Hóa ra tôi đã đưa lộn
bằng lái xe thay vì thẻ căn cước. Đội
ơn Chúa, thế là tôi có thể đi được.
Nhưng đến Mêxicô, thì một vấn đề
khác xảy ra, cũng trầm trọng không kém. Lúc
ấy, tôi cầu nguyện:
- Chúa ơi, Chúa hãy
bịt mắt anh nhân viên này, để anh ấy không
thấy những gì con thiếu.
Nhân viên kiểm soát đang
uống cà phê. Lơ đễnh, anh ta đang nói chuyện với
một người bạn…, nên không nhìn đến
giấy tờ của tôi. Anh đóng dấu trên giấy
xuất trình…, thế là tôi được vào Mêxicô. ở
đây, Chúa bịt mắt nhân viên Sở Di Trú, còn trong kỳ
cấm phòng, Ngài đã mở mắt cho một người
đàn bà bịmù từ 5 năm. Chúa là vịChúa Tể làm
được tất cả những điều không có
thể!
Sau cuộc giảng cấm
phòng ở Monterrey, chúng tôi đã cử hành một Thánh
Lễ cầu nguyện cho bệnh nhân ngoài trời, trong
khuôn viên của thánh đường, bàn thờ được
đặt giữa 6.000 người bịướt
sũng vì mưa không dứt. Sau khi rước lễ,
Chúa chữa một ông bịcâm từ vài năm, do một
cơn tai biến mạch máu não. Chúa đã mở lưỡi
cho ông và ông đã kêu to:
- Vinh quang Thiên Chúa! Vinh
quang Thiên Chúa!
Những người quen
biết ông từ trước thấy vậy, thảy
đều sững sờ; sau đó, họ đưa ông lên
máy vi âm để ông làm chứng. Hai người què
cũng được lành, họ đứng dậy và
bước đi. Một trong hai người lên giảng
đài làm chứng, đang khi cha sở khóc xúc động.
Nhiều linh mục đồng tế với chúng tôi
cũng xúc động ứa lệ. Tôi cười hân hoan
và reo lên:
- Anh chịem và mọi
người thấy đó: Chúa Yêsu đang sống.
Đó là tóm tắt một
vài hoạt động của tôi trong năm nay. Các bạn
sắp bảo rằng: tôi chỉ thích nói
về các cuộc tĩnh tâm thôi. Đúng vậy! Chính
đó là tâm tư, là ơn gọi của tôi: sống
để cao rao khắp nơi tình thương và
lòng từ bi của Thánh Tâm Chúa Yêsu.
*
* *
La Romana 10-12-1982
Cha mẹ và các bạn thân
yêu!
Ước mong tất cả
đều mạnh khoẻ và tràn đầy niềm vui của
Chúa. Phần tôi, chưa bao giờ mạnh khoẻ như
bây giờ, và sung sướng đem chính sức
khoẻ mà Chúa đã trả lại cho tôi cách đây 10
năm, để phục vụ cho việc rao giảng Tin
Mừng. Tôi còn dự tính sẽ viết cuốn sách nhỏ
về các lời chứng, trong đó, tôi sẽ thuật lại
những gì tôi thấy, suốt 10 năm làm việc tông
đồ trong phong trào Canh Tân. Tôi không biết có giờ
viết cuốn sách ấy không, nhưng ý tưởng
ấy cứ luôn quanh đi quẩn lại trong đầu
tôi. Tôi sẽ thử viết và có thể đề tựa
là: “Chúa Yêsu đã làm cho tôi thành một chứng nhân”.
Cuối tháng 11, tôi đã từ
Polynêsi thuộc Pháp trở về. Đó là một trong những
cuộc hành trình đẹp nhất của đời
tôi. Chưa bao giờ tôi gặp một dân tộc dễ
mến, và sẵn sàng đón nhận Lời Chúa như
thế. ở đây, tôi đã trải qua một giai đoạn
rao giảng Tin Mừng đầy vui mừng và đầy
phúc lộc.
Để các bạn
hình dung được sự đón tiếp của dân
chúng, tôi chỉ kể ra đây lần đến Phi cảng
Tahiti lúc 2 giờ sáng, sau 16 giờ bay từ Saint-Đômingô
(gấp đôi giờ bay từ Saint-Đômingô tới Paris).
Tôi vô cùng ngạc nhiên, khi thấy ít nhất 200 thành viên
của phong trào Canh Tân đã đợi ở Phi cảng.
Họ đến đón tôi vào buổi sáng sớm tinh mơ
đó với những vòng hoa, những chiếc hôn và những
bài ca. Họ hát bài “Alabaré” cách nhiệt tình. Họ
choàng lên tôi nhiều vòng hoa đến che kín cả
mắt. Phải chi tôi có cái cổ dài như lạc
đà!
Hai ngày sau, chúng tôi khởi sự
Đại hội lần thứ nhất cho thành phần
lãnh đạo phong trào Canh Tân, họ từ nhiều đảo
của Polynêsi đến. Trong cuộc tĩnh tâm thứ
nhất nói tiếng Pháp này, có tới 220 người dự.
Có những người ở những hòn đảo xa
hơn, phải đi tàu mất ba hôm để dự 5 ngày
tĩnh tâm. Qua đó, tôi nhận thấy tinh thần hy sinh
của họ rất cao. Chẳng lạ gì, khi
họ được Chúa chúc phúc dồi dào. Cách nào đó,
tôi được sống lại những biến cố
giống như ở Pimentel năm 1975.
Các vịthừa sai
đầu tiên đã đến truyền giáo ở Polynêsi
thuộc Pháp vào năm 1834. Năm nay, dịp mừng Lễ
kỷ niệm 150 năm truyền giáo, người ta
tổ chức các cuộc tĩnh tâm rao giảng Tin Mừng
cho cả địa phận. Những cuộc tĩnh tâm
đặc sủng của chúng tôi cũng là một trong
chương trình chung ấy.
Lòng quảng đại của
dân chúng biểu lộ bằng muôn ngàn cách. Chưa bao giờ
tôi nhận được nhiều quà như ở đây:
mười tám áo sơ mi, hai đôi giầy, một bộ
đồ lớn màu xanh rất lịch sự, v.v… Khi tôi
sắp rời nơi đó, không có vali nào chứa
hết các thứ ấy; thế là cộng đoàn Công giáo
gốc Hoa biếu tôi một cái vali lớn và đẹp
chưa từng thấy, để xếp quà biếu vào.
Tôi đã mang quá định mức 25kg khi lên phi cơ, mà
người ta không bắt trả thêm một xu cước
phí nào. Chắc tôi không dễ quên dân chúng ở
Tahiti, cũng như ở các đảo mà tôi đã
đến để rao báo Tin Mừng gần một tháng
trời – toàn những tâm hồn cởi mở trước
Lời Chúa.
Sau khi giảng tại hai
đảo khác, thăm viếng nhiều cộng
đoàn nữ tu và bệnh nhân phong cùi, cùng với họ
dâng Thánh Lễ, rồi gặp gỡcác tu sĩ thừa
sai, tuần cuối cùng, tôi giảng một bài vào buổi
chiều và dâng lễ cầu nguyện cho các bệnh nhân.
Chiều nào cũng có từ 3.000 đến 5.000 người
dự. Thay vì bài giảng, thì những bệnh nhân
đã được Chúa chữa khỏi ngày hôm trước
lên tiếng làm chứng.
Lời chứng gây cho tôi
ấn tượng mạnh nhất, là trường hợp
người đui hẳn một mắt, còn
mắt kia nhìn được lờ mờ, và anh ta
sắp đi mổ. Trong Thánh Lễ cầu cho bệnh
nhân, vào chính lúc dâng Mình Thánh, anh thấy một ánh
sáng lớn trong nhà thờ và mắt anh ta mở ra. Anh
được lành!
Nếu lúc đến,
người ta choàng hoa cho tôi, thì lúc đi, họ choàng
đủ thứ vỏ sò. Khi đeo những thứ đó
lên máy bay, chúng khua thành tiếng động lổn ngổn,
làm mọi người hành khách trên đó đều cười
rộ. Tôi đã chia sẻ các món quà ấy cho những
tín hữu trong họ đạo của mình.
Thật là một cảnh tượng vui mắt, khi
nhìn những người dân miền Caribê mặc
quần áo và đeo những vòng xuyến của dân miền
Pôlynêsi!
*
* *
La Romana 25-10-1983
Cha mẹ và các bạn thân
mến!
Tôi vừa từ Nam Tư
về và hết lòng mong muốn chào thăm tất cả,
cầu mong mọi người vẫn bình an và
được vui mừng trong Chúa.
Tôi nghĩ: mình không
được phép lặng im, sau khi đã thấy những
điều trong cuộc hành trình dài loan báo Tin Mừng,
bắt đầu ngày 18 tháng 8 năm 1983, và kết thúc
vào ngày 15 tháng 10 – ngày lễ Thánh Têrêsa thành Avila.
Ngày 18 tháng 8, tôi đến
Pháp để dự cuộc họp mặt của những
cộng đoàn Canh Tân Đặc Sủng Pháp, tổ chức
tại Ars, gồm 4.000 người cùng dự một
tuần lễ cầu nguyện, suy nghĩ và học hỏi
trong niềm vui của Chúa. Thật là một cuộc
họp mặt tốt đẹp và tràn đầy phúc lộc!
Từ đó, tôi sang Nam
Tư. Đồng hành với tôi có cha Pierre Rancourt, người
Québec, và bác sĩ Philippe Madre, phó tế, phụ trách cộng
đoàn đặc sủng “Sư tử Yuđa” tại
Pháp. Căn cứ vào những chứng từ và những hoa
quả biểu lộ tính xác thực, thì Đức
Trinh Nữ đã hiện ra ở Mễ Du (Medjugorje), nước
Nam Tư, truyền một sứ điệp kêu gọi hòa
bình, ăn năn thống hối và cầu nguyện.
Có điều chắc chắn là họ đạo của
cha Tomislav Vlasik đã trở thành một trung tâm đức
tin và hành hương, ở đó có rất nhiều cuộc
trở lại.
Chúng tôi đến Mễ Du
trước Thánh Lễ 7 giờ chiếu thứ ba. Cha
Tomislav mời chúng tôi đồng tế với ngài. Có
hơn 3.000 người đến dự Thánh Lễ. Mười
hai linh mục ngồi ngoài trời, đang giải tội
cho hàng dãy dài những hối nhân.
Đó chỉ là một
buổi tối bình thường (còn thứ bảy và
Chúa nhật thường lên tới 7, 8 ngàn người,
suốt hai năm nay). Cuối lễ, cha Tomislav nói với
tôi:
- Dù hôm nay chưa
bắt đầu cuộc cấm phòng, nhưng đã có
nhiều khách hành hương bệnh tật. Cha có muốn
hướng dẫn một buổi cầu nguyện cho
họ không?
Tôi vui mừng chấp
nhận, và nhờ một linh mục thông dịch lời
cầu nguyện của tôi sang tiếng bản xứ
(Croate). Ngay đêm đầu tiên ấy, Chúa đã khởi sự
chữa lành bệnh nhân, họ lên làm chứng liền sau
Thánh Lễ.
Hôm sau, người ta
kéo đến ít nhất 8.000 người. Tin
đồn những việc chữa lành lan đi mau chóng, và
điều ấy gây lo ngại cho các cơ quan Nội
vụ. Chúng tôi đã cầu nguyện, và Chúa chữa
nhiều người được khỏi qua lời chứng
của họ. Đêm thứ năm, có đến 15.000
người kéo đến, trong khi chúng tôi đang… ở
trong tù.
Chuyện đó xảy
đến thế này: ban sáng, chúng tôi giảng cho nhóm bạn
trẻ, và cầu nguyện cho họ được thanh
tẩy trong Thánh Thần. Tất cả đều
được Chúa chúc phúc, một số khác được
ơn nói tiếng lạ, và một bầu khí bình
an, vui mừng ngự trịtrong cộng đoàn. Sau đó,
chúng tôi về nhà xứ dùng cơm trưa. Cuối buổi,
3 nhân viên đến đưa lệnh bắt chúng tôi,
buộc chúng tôi cầm giấy thông hành theo họ
để được thẩm vấn. Chúng tôi bị
nhốt!
Chúng tôi bịđưa
đến thịtrấn Citluk, cách đó khoảng 7 cây
số. Dẫn ra trước tòa án, chúng tôi bịkết tội
phá rối trịan tại Nam Tư, và rao giảng không có
phép của chính quyền. Họ nhốt chúng tôi vào
một phòng nhỏ đợi điều tra thêm. Cũng
may, tôi không đến Nam Tư một mình, nên cả 3
chúng tôi đều bịgiam chung, cũng là một
điều hay. Chúng tôi ở đó suốt buổi
chiều. Thời gian trôi đi, chúng tôi không biết
điều gì sẽ xảy ra. Khoảng 5 giờ
chiều, thời tiết quá nóng, chúng tôi hỏi xin nước
uống, nhưng được trả lời không có
nước.
Ngày hôm trước, chúng tôi
ăn chay, chỉ dùng bánh mì và nước lạnh,
để cầu nguyện cho hòa bình thế giới.
Đó là thói quen của các linh mục, nữ tu và các nhóm
cầu nguyện tại Mễ Du thực hành mỗi ngày thứ
tư. Tôi thầm đợi đến ngày thứ
năm sẽ ăn uống bình thường trở lại,
nhưng đến ngày thứ năm, tôi cũng
chẳng có một mẩu bánh mì và ly nước lạnh.
Giờ lần chuỗi tại xứ đạo Mễ Du,
trong tù, chúng tôi cũng tham dự với họ, và kết
thúc bằng bài hát Salve Regina. Một viên cảnh sát
giận dữ bước vào và ra lệnh chúng tôi phải
im lặng. Tôi không biết rằng người tù bịcấm
ca hát, nhưng tôi nghĩ rằng anh ta bực mình,
vì thấy chúng tôi vui sướng và bình an.
Trên tường, có treo một
bức ảnh lớn của Chủ tịch Titô. Tôi nhờ
cha Pierre Rancourt chụp dùm tôi một tấm hình,
để làm kỷ niệm chuyến thăm Nam Tư này.
Tôi đứng mỉm cười, và một tay đang
chỉ vào tấm hình Titô, như để nói
rằng: “Chính ông này phạm tội!”. Khi
đèn máy chụp hình vừa nhá sáng, thì cảnh
sát chạy ngay tới. Họ rất giận dữ, và ra lệnh
cho tôi phải đưa máy hình cho họ. Tôi run rẩy
như một cậu bé làm lỗi. Tôi bật mở máy
hình ra cho phim bịhư, để tránh nguy hiểm và
để tình thế đừng tồi tệ thêm.
Sau khi lục soát các vali,
họ cho chúng tôi 24 giờ để rời khỏi nước,
bằng không, chúng tôi sẽ bịtống giam lại.
Hôm sau chào từ biệt các
linh mục, tu sĩ đã đối xử rất tử
tế và tỏ ra rất buồn vì thấy chúng tôi bịtrục
xuất như thế, chúng tôi lên tắc xi đi Zadar,
cách đó 350 cây số. Có hai phụ nữ người
Mỹ đi hành hương đã cho chúng tôi 150 đôla
để trả tiền tắc xi. ở Zadar, thành
phố du lịch nằm trên bờ biển Adriatique,
chúng tôi đáp chuyến bay 9 giờ tối đến Rimini
(Ý) vào 6 giờ sáng hôm sau; từ đó lên xe lửa
đi Milan. Đến chiều, phi cơ chúng tôi tới
Paris, vừa lúc ăn tối. Chúng tôi đã phải mất
hai ngày từ Nam Tư trở về, vì hôm ấy không
có cách nào để lấy vé máy bay được. Tin
Mừng đã nói đúng, khi hứa cho chúng tôi được
gấp trăm và cả sự bắt bớ vì Danh
Đức Yêsu!
Trong thư sau, tôi sẽ
kể cho tất cả nghe những cuộc phiêu lưu tại
Congo, dịp chúng tôi đến đó để mừng
kỷ niệm bách chu niên truyền giáo. Nguyện Chúa chúc
phúc cho Ba mẹ và các bạn!
*
* *
La Romana 15-11-1983
Cha mẹ và các bạn thân
mến!
Đây là trình thuật
chuyến đi Phi Châu của tôi, với một số
điều kỳ lạ mà mắt tôi đã thấy.
Đêm 19 tháng 11, tôi từ Paris sang Phi Châu. Tôi sẽ phải
giảng ở Congo 15 ngày, và sau đó, 5 ngày ở Zaire
(xưa là Congo Bỉ).
Sáng 20 tháng 11, tôi đến
Kinshasa – thủ đô của Zaire – và được các cha
Dòng Tên đón tiếp nồng hậu, nhất là cha Guy
Verhaegen SJ, phụ tá điều hành về cộng đoàn
đặc sủng ở Kinshasa. Cha đã mời tôi
đến giảng tĩnh tâm cho thành phần nòng cốt của
cộng đoàn ấy.
Sau chuyến bay 8 tiếng,
tôi nghỉ ngơi một chút, rồi đến Đại
sứ quán Congo xin hộ chiếu. Ngày hôm sau, tôi đáp tàu thủy
đi Kinshasa để đến Brazzaville – thủ đô
nước Congo – chỉ mất vỏn vẹn 10 phút.
Lúc đến Congo, tôi
đi ngay Linzolo – trung tâm hành hương kính Đức
Mẹ – cách Brazzaville 20 cây số. ở đây sẽ khai mạc
buổi cấm phòng đầu tiên, trên 3.500 người
đang ở ngoài trời chờ đợi cuộc
tĩnh tâm 4 ngày. Sau khi chào thăm cha Ernesto Kombe SJ – vịđiều
hành trung tâm – chúng tôi bắt đầu đề tài
tĩnh tâm: “Lòng tin vào Lời Thiên Chúa”.
Một quang cảnh
thật cảm động, khi thấy hàng ngàn con người
ngồi trên chiếu hay ghế đẩu, chăm chú nghe Lời
Thiên Chúa. Đây thật là một cuộc đại
truyền giáo bình dân vào dịp Bách chu niên Truyền giáo,
và đồng thời kỷ niệm 10 năm của phong
trào Canh Tân ở Congo.
Tôi giảng sáng hai bài,
chiều một bài, đoạn dâng Thánh Lễ, trong đó
có thuyết giảng và cầu nguyện cho bệnh nhân.
Chiều tối, chúng tôi còn có một buổi họp lớn
cầu nguyện đặc sủng cho bệnh nhân, kèm
theo mọi biểu thịvề Thần Khí mà Chúa
muốn ban cho chúng tôi. Một chiều nọ, chúng tôi lại
chầu Mình Thánh, đặt trên bàn thờ ngoài trời,
gần hang đá Đức Mẹ. Từ 9 giờ
đến nửa đêm, cầu nguyện tự do, hát
thánh ca và giảng dạy.
ở Congo, tôi gặp
thấy một đức tin sâu sắc và mãnh liệt,
một lòng tin ít khi tôi gặp được, suốt
cuộc hành trình rao truyền Tin Mừng khắp
đó đây trên thế giới. Hãy tưởng tượng
xem lòng tin ấy phải thế nào, khiến đám người
ở suốt 4 ngày tĩnh tâm, không quán trọ để
trú thân! Mỗi người tự xoay sở, ngủ màn trời,
nằm chiếu đất, ăn những gì đã
mang theo trong ba lô. Thiên Chúa – Đấng không hề thua ai
về lòng đại lượng – đã làm rạng rỡvinh
quang Người vào dịp này.
Từ 8 năm nay, chính
quyền mác-xít cai trịCongo. Sau khi đất nước
độc lập, chính phủ dân chủ lên cầm
quyền, nhưng không đứng vững, đã mau chóng
sụp đổ và chính quyền Cộng sản lên
thay.
Năm 1977, Chủ Tịch
Cộng sản Ngouabi bịám sát, và một người
Mác-xít khác lên nắm quyền, tự xưng là chủ
tịch nhà nước. Bốn ngày sau, cảnh sát
đến bắt Đức Hồng Y Emile Biayenđa tại
Brazzaville. Họ ra lệnh cho ngài đi theo về cơ quan
thẩm vấn. Ngài mất tích luôn từ đó.
Mọi người nói với tôi rằng: Đức
Hồng Y là một chủ chăn tốt lành và tài năng
xuất chúng.
Cách đây 2 năm, Đức
Giáo Hoàng Yoan Phaolô II có viếng thăm Congo và đến
Brazzaville. Ngài cử hành Thánh Lễ trọng thể ngoài trời,
giữa niềm hân hoan vô bờ của dân chúng. Từ
đó, chính phủ của Đại Tá Denis Sassou đã
có những tiến triển khả quan trong mối liên hệ
với Giáo Hội, đặc biệt được ghi
nhận trong năm qua, với biến cố kỷ niệm
một trăm năm truyền giáo tại nước này.
Chính trong hoàn cảnh đó, tôi đến đây 15 ngày
để giảng tĩnh tâm cho quần chúng, do Đức
Giám Mục đương kim của Brazzaville mời.
Tôi chưa từng thấy
nơi nào xảy ra việc chữa lành nhiều đến
thế trong kỳ tĩnh tâm ấy. Chỉ một nước
có thể tạm so sánh với Congo, về phương diện
các dấu lạ đi liền theo việc rao giảng Tin Mừng,
đó là Polynêsi thuộc Pháp, mà năm rồi tôi đã giảng
ba tuần tĩnh tâm. Đấy cũng là dịp mừng
kỷ niệm Bách chu niên truyền giáo. Nhưng ở Congo,
các dấu lạ còn mạnh mẽ và đánh động
hơn.
Chúng ta đọc thấy
trong sách sứ ngôn Ysaia:
“Trong ngày ấy, kẻ điếc sẽ nghe Lời trong
Sách;
Và ra khỏi mù mịt, tăm tối, mắt kẻ
đui sẽ thấy.
Những kẻ bất hạnh sẽ lại được
mừng vui trong Yavê.
Những người cùng khốn trong loài người
Sẽ nhảy mừng trong Đấng Thánh của Israel”
(Is 29,18-19)
Rồi xa hơn một
chút:
“Hãy hoan lạc, hỡi sa mạc và vùng đất cạn
khô!
Nơi hoang vu cũng hãy hân hoan,
Hãy trổ hoa như huệ lan…
Chúng sẽ thấy vinh quang Yavê,
Ánh huy hoàng của Thiên Chúa ta thờ.
Hãy bổ sức cho những bàn tay rã rời!
Hãy tăng cường cho những đầu gối bủn
rủn!
Hãy bảo những người hốt hoảng:
Can đảm lên, đừng sợ!
Này đây Thiên Chúa của các người đến…
Bấy giờ mắt kẻ mù sẽ mở, tai người
điếc sẽ thông.
Bấy giờ kẻ què quặt sẽ nhảy tợ
hươu nai,
Lưỡi người câm cũng sẽ reo hò…”
(Is 35,1-6)
Trong mấy ngày này, chúng tôi
chứng kiến các dấu lạ ấy “nơi những
người cùng khốn trong loài người”. Thiên Chúa
đã cho kèm theo Lời Cứu rỗi của Người,
bằng mọi thứ dấu lạ và kỳ công. Tin Mừng
vẫn chân thật và hiệu nghiệm ngày nay, nếu ta thật
tâm tin vào Chúa.
Ngay chiều đầu tiên
của cuộc tĩnh tâm ở Linzolo, sau lời cầu
nguyện cho bệnh nhân, một lời của Chúa vang dội
mạnh mẽ trong tim tôi (và tôi thông tri ra):
- ở đây, có một
người đau nhiều bên chân mặt. Anh đi
khập khiễng, và khó nhọc lắm mới đứng
được trên chân ấy. Lúc này, anh cảm thấy run
rẩy và thấy có một sức nóng mãnh liệt nơi
chân. Chúa đang chữa anh. Hỡi anh bạn – người
đang cảm thấy tác động của Chúa Yêsu – hãy
trông cậy! Nhân Danh Chúa Yêsu, anh hãy đứng dậy và bước
đi!
Một lúc lâu, cử
tọa im lặng, không ai nhúc nhích. Vì không phải
mọi người đều hiểu biết tiếng
Pháp, nên phải thông dịch ra tiếng địa
phương (người thông dịch là cha Ernesto Kombo luôn
đi theo tôi mọi nơi).
Thế rồi, anh thanh niên
trạc 28 tuổi đứng dậy và “nhảy tợ
hươu nai”, một chân anh còn quấn băng. Anh bịhành
đau đớn từ lâu, khiến anh không còn lao động
được. Để mọi người thấy anh bịquè,
anh đứng ra trước công chúng, chân mặt còn
quấn băng. Anh không còn khập khiễng nữa. Đám
đông vỗ tay reo hò, và mọi người ngợi khen
Chúa. Tất cả đều thấy “vinh quang của
Yavê” bừng sáng trước mắt họ, cùng với
một trận mưa ân phúc và ơn chữa lành mà Chúa ban
xuống cho vùng đất này – một vùng đất cạn
khô, cháy khát.
Hôm sau, nhiều người
lên làm chứng đã được khỏi bệnh. Một
người mù đã được thấy và lên làm chứng
để cảm tạ Chúa. Điều làm chúng tôi ngạc
nhiên nhất là vào ngày thứ hai, một bé gái 10
tuổi, vừa câm vừa điếc từ lọt lòng
mẹ, đã được khỏi. Quả đúng, “tai
người điếc sẽ thông, lưỡi người
câm sẽ reo hò…”!
Em gái đó, từ bẩm
sinh chưa hề nghe biết tiếng động, nên em vô
cùng hốt hoảng, và vừa chạy xa ra, vừa lấy
ngón tay bịt tai lại. Một lúc, em dần dần
bình tĩnh lại. Sáng hôm sau, rạng rỡ, vui
tươi, em đến nhà xứ với mẹ,
để cho chúng tôi thấy em đã được khỏi.
Chúng tôi nói vài câu tiếng Pháp, em lập lại rõ ràng.
Em quá thích thú vì có thể lập lại
điều chúng tôi nói, y như đứa trẻ tập
nói: “Ba! Ba! Má! Má!”. Ơn chữa lành này gây ngạc nhiên lớn
và tin đồn vang tới thủ đô.
Nhiều lời chứng
khác được nêu lên sau Thánh Lễ mỗi buổi
chiều. Đám người tham dự thêm đông,
đến nỗi khi kết thúc cuộc tĩnh tâm, con
số ít nhất phải lên đến 5.000 người.
Tôi còn giữ một kỷ niệm khó quên về buổi
tĩnh tâm ấy ở Linzolo.
Nhưng đó mới
chỉ là bắt đầu. Chúa nhật, Thánh Lễ
dành cho bệnh nhân tại nhà thờ Chánh tòa. Chúng tôi phải
cử hành lễ ngoài trời, vì có hơn 2.000 người
tham dự. Trong Thánh Lễ ấy, Chúa muốn làm một
dấu rất rõ về sự chân thật của Lời
Ngài, như Ngài đã làm khi nói với người bất toại
trong Tin Mừng: “Để các ông biết Con Người
có quyền tha tội dưới đất…” Ngài nói với
người bất toại: “Hãy chỗi dậy, vác
chõng mà về nhà!” (Lc 5,24).
Sau lời cầu nguyện
cho bệnh nhân, một người đàn ông, vốn bịbán
thân bất toại đã 8 năm, không thể tự
mình xê dịch, ông ta cảm thấy mình được
Chúa chữa lành. Một lời thông tri mời ông đứng
dậy. Trước sự kinh ngạc của mọi
người, ông đứng lên và đi một mình
đến trước bàn thờ. ở đó, ông cảm tạ
Chúa qua tiếng khóc nức nở. Ông đã hoàn toàn
được lành bệnh!
Hai ngày sau dành cho tĩnh tâm
linh mục, tu sĩ ở Brazzaville. Hai Thánh Lễ
được cử hành tại hai nhà thờ khác nhau, và có
mời các bệnh nhân đến dự. Thánh Lễ thứ
nhất cử hành bên ngoài nhà thờ Thánh Phêrô, có vài ngàn
người đến dự, đứng chật cả
sân. Tôi giảng về “Thánh Thể, Bí tích chữa
lành”, và Chúa đã xác nhận sự hiện diện thực
sự của Ngài trong phép Mình Thánh, bằng cách
chữa hai người bại liệt: một phụ nữ
35 tuổi được khiêng tới trên cáng.
Chịnằm liệt
giường từ hai năm rưỡi nay. Chúa đã cho
chị chỗi dậy sau khi rước lễ. Tôi
đưa tay giúp chịđứng dậy, và chịđã
lên tới bục bàn thờ, khó nhọc bước lên
bậc tam cấp của lễ đài. ở đó, chịvui
mừng như điên, và nhảy một vũ điệu
trước mặt đám đông. Cả cử tọa
như lên cơn say mê cuồng nhiệt.
Tác giả: Emiliano Tardif