Chuyện Người Hành Hương (7)
Nguyên tác: Một Kitô hữu Nga
Biên dịch: Nguyễn Ước
Vậy thêm lần nữa con cất bước trên con đường cô đơn của mình, lòng cảm thấy vô cùng nhẹ nhàng như thể vừa trút khỏi vai một gánh rất nặng nề. Lời cầu nguyện lại càng an ủi con hơn, tới độ đôi khi tim con sủi bọt với tình yêu thương vô biên Đức Giêsu Kitô, và từ trạng thái khoái cảm đó, dường như nguồn suối ủi an tuôn chảy khắp châu thân con. Sự tưởng nhớ Đức Giêsu Kitô hằn sâu trong tâm trí con khiến con nghiền đi ngẫm lại những câu chuyện trong sách Tin Mừng tới mức dường như con thấy các biến cố xa xưa ấy đang diễn ra ngay trước mắt mình. Con cảm động tới nỗi trào nước mắt hân hoan, và đôi khi trong con tim mình cảm thấy khoan khoái tới độ con bối rối không biết làm sao kể lại được.
Đôi khi thực tế xảy ra là trong ba ngày liên tiếp con không gặp được nơi nào có người ở, và trong trạng thái tâm hồn hướng lên cao, con cảm thấy như thể trên địa cầu này chỉ có một mình con, kẻ tội lỗi tả tơi trước Thiên Chúa đầy lòng từ bi và yêu thương loài người. Cảm giác sống cô đơn đó là niềm an ủi con và làm cho con cảm thấy thêm sung sướng trong khi cầu nguyện riêng, hơn rất nhiều những khi con hoà trộn chung với đám đông người ta.
Cuối cùng, con tới Irkutsk. Sau khi cầu nguyện trước các thánh tích của Thánh Innôcentê, con bắt đầu tự hỏi rằng mình đi đâu bây giờ. Con không muốn ở lại đây lâu vì đây là thành phố đông đúc quá. Con đang đi dọc theo đường phố miên man nghĩ ngợi thì bất ngờ gặp một thương gia người ở đây. Ông chận con lại và hỏi:
- Anh có phải là người hành hương không? Sao anh không theo tôi về nhà tôi?
Con bằng lòng và chúng con cùng đi. Ông đem con vô ngôi nhà nhiều đồ đạc và giàu có của ông, rồi hỏi về bản thân con. Con kể ông nghe từ đầu tới cuối cuộc hành trình của mình. Nghe xong, ông nói:
- Anh phải tiếp tục hành hương tới Giêrusalem - ở đó có những đền thánh mà ta không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác có cái giống như thế!
Con trả lời:
- Được như vậy thì không còn gì vui sướng hơn, nhưng tôi không có tiền. Tôi có thể đi bộ theo đất liền cho tới khi gặp biển, nhưng tôi không cách gì trả nổi chuyến vượt biển, vì nó tốn quá nhiều tiền.
Người thương gia nói:
- Anh có muốn tôi tìm tiền cho anh không? Năm ngoái, tôi đã gởi đi một người ở chung thành phố này, một ông lão.
Con sấp mình xuống chân ông, và ông tiếp tục nói:
- Anh hãy nghe đây. Tôi sẽ giao anh một lá thư gởi con trai tôi ở Odessa. Nó sinh sống ở đó và làm ăn giao dịch với Conxtantinốp. Nó sẽ vui mừng giúp anh quá giang trên một trong các con tàu đi Conxtantinốp, rồi bảo đại lý của nó ở đó ghi tên anh đi Giêrusalem trên một con tàu khác, và nó chịu trả tiền chuyến đi đó. Đi theo cách như vậy thì không tốn nhiều tiền lắm.
Nghe như vậy, con vui mừng choáng váng và cám ơn vị ân nhân của mình vì lòng ưu ái của ông ấy. Còn hơn thế nữa, con cám ơn Thiên Chúa đã tỏ cho con tình cha con của Ngài và sự chăm sóc của Ngài dành cho con, kẻ tội lỗi tả tơi, kẻ chẳng làm được điều gì tốt cho bản thân và cho bất cứ người nào khác, và trong lười nhác, ăn bánh mì của người khác.
Con ở lại ba ngày với người thương gia tử tế đó. Như đã hứa, ông đưa lá thư gởi gắm con cho con trai ông, và lúc này con đang trên đường đi Odessa dự tính đi tiếp cho đến khi con tới được Giêrusalem. Nhưng con không biết Chúa có để cho con tới được thánh mộ truyền sức sống chí tôn chí kính của Ngài hay không.
Chương Ba
Vào hôm trước ngày rời Irkutsk, tôi đến gặp cha linh hướng của mình, người mà tôi thường xuyên đàm đạo. Tôi thưa với ông:
- Thưa cha, con thật sự lên đường đi Giêrusalem đây. Con tới chào từ biệt và cám ơn tình yêu của cha đã vì Đức Kitô mà dành cho con, một kẻ hành hương bất xứng.
Ông đáp lại:
- Nguyện xin Thiên Chúa ban phước lành cho chuyến đi của con. Nhưng tại sao con chưa bao giờ kể cho ta nghe về con, rằng con là ai, con từ đâu tới đây? Ta đã nghe nhiều điều về các chuyến đi của con, và ta sẽ vô cùng thích thú khi được biết ít nhiều về sự chào đời và cuộc sống của con trước ngày con trở thành người hành hương.
Tôi trả lời:
- Vậy thì thưa cha, thật hân hạnh cho con. Con sẽ kể hết mọi sự cha nghe. Chuyện không dài lắm, nó như thế này:
Con sinh ra tại làng quê trong một tỉnh vùng Orel. Sau khi cha mẹ con qua đời, chỉ còn lại hai anh em: anh con và con. Lúc ấy anh con mười tuổi và con lên hai. Ông nội con, một người đáng trọng và có đời sống khá thoải mái, nuôi dưỡng hai anh em con. Ông nội con làm chủ một quán trọ sát bên đường cái, và vì tâm hồn ông trọn lành nên quán trọ có nhiều lữ khách. Anh của con là một thiếu niên bốc đồng, suốt ngày rong chơi khắp làng. Còn phần con, con muốn rằng cách tốt là ở bên ông nội của mình.
Vào các ngày Chúa Nhật và ngày lễ trọng, hai ông cháu chúng con cùng nhau đi nhà thờ. Ở nhà, ông nội của con thường đọc Kinh Thánh, chính cuốn Kinh Thánh này, cuốn hiện nay thuộc về con đây. Anh của con lớn lên thì đâm ra rượu chè. Có lần khi con lên bảy, hai anh em nằm trên một lò sấy, anh ấy xô con rất mạnh tới độ con té xuống đất và bị thương nơi cánh tay trái. Kể từ ngày đó con không sử dụng được nó nữa, khắp cánh tay bại xuội dần. Ông nội của con thấy là con không còn có thể hợp với việc canh tác đất đai nên dạy con đọc. Vì không có sách đánh vần nên ông dạy con đánh vần bằng cuốn Kinh Thánh. Ông chỉ các chữ cái và tập cho con dò chữ, học cách nhìn chúng mà nhận mặt chữ. Tự con thì không cách gì nhận ra được nên bằng cách này hoặc cách khác, con lặp đi lặp lại hoài theo ông nội. Về sau, khi mắt nhìn của ông yếu dần, ông thường bảo con đọc lớn Kinh Thánh để ông vừa nghe vừa sửa chữa những chỗ sai cho con. Có một tu sĩ thường hay tới trọ tại quán của ông nội con. Ông ấy viết chữ đẹp lắm, con thích nhìn ông ấy viết. Con bắt chước chữ viết của ông ấy, và ông ấy bắt đầu dạy con tập viết. Ông ấy cho con giấy mực, dạy con làm bút bằng lông ngỗng, và nhờ vậy, con cũng được học viết. Ông nội của con rất bằng lòng và càng thêm ân cần đối với con. Ông nội của con nói:
- Thiên Chúa đã ban cho cháu tặng phẩm học hành. Nó sẽ làm cháu nên người. Cháu hãy dâng lời cám tạ Thiên Chúa và hãy thường xuyên cầu nguyện.
Ông nội của con và con thường tham dự tất cả các buổi phụng vụ tại nhà thờ; và tại nhà mình, chúng con thường đọc kinh. Phần của con là ngày nào cũng phải đọc Thánh Vịnh số năm mươi mốt, và trong khi con đọc thì ông nội bà nội của con sấp mình xuống đất hoặc quì gối.
Năm con được mười bảy tuổi, bà nội con qua đời. Rồi ông nội nói với con:
- Ngôi nhà này của chúng ta không còn nữ chủ nhân, và như vậy không tốt. Anh của cháu là một tên vô tích sự. Ta sẽ kiếm cho cháu một người vợ; cháu phải lập gia đình.
Con không chịu ý kiến đó, nói rằng con là kẻ tàn tật, nhưng ông không nhượng bộ. Ông tìm được một thiếu nữ có phẩm hạnh và có lương tri, tuổi chừng hai mươi, rồi con cưới cô ấy.
Một năm sau, ông nội con ngã bệnh rất nặng. Biết rằng cái chết đã gần kề, ông cho gọi con tới, nói lời vĩnh biệt con, và trối trăn rằng:
- Ta để lại cho cháu ngôi nhà này và tất cả những gì ta có. Cháu hãy nghe theo tiếng nói của lương tâm mình, đừng lừa dối ai; và trên hết, cháu hãy cầu nguyện Thiên Chúa vì mọi sự từ Ngài mà có. Cháu hãy tin duy nhất vào một mình Ngài thôi. Cháu hãy thường xuyên đi nhà thờ, đọc cuốn Kinh Thánh của cháu, và hãy nhớ đến ta cùng bà nội của cháu trong lời cầu nguyện. Đây là số tiền của ta, ta cho cháu, một ngàn đồng rúp. Cháu hãy cai quản nó. Đừng tiêu xài phung phí, mà cũng đừng keo kiệt. Cháu hãy đem một ít cho người nghèo và cho giáo hội của Thiên Chúa.
Nói xong, ông nội của con qua đời và con chôn cất ông.
Anh của con sinh lòng ganh tị vì tất cả tài sản được để lại cho con. Lòng giận của anh ấy càng ngày càng tăng, và kẻ thù xúi giục anh tới mức làm cho anh có luôn cả cái việc sắp đặt kế hoạch giết con. Cuối cùng, vào một đêm khi vợ chồng con đang ngủ và trong nhà không có người khách trọ nào thì anh thực hiện kế hoạch. Anh phá cửa xông vô buồng cất tiền, lấy hết tiền trong rương, rồi đốt luôn buồng đó. Tới khi chúng con biết ra thì lửa đã cháy lan khắp toà nhà. Chúng con chỉ kịp nhảy qua cửa sổ, mình còn mặc quần áo ngủ. Cuốn Kinh Thánh nằm dưới gối nên chúng con chụp lấy, mang theo mình. Nhìn ngôi nhà bốc cháy, chúng con bảo nhau rằng:
- Tạ ơn Thiên Chúa đã cứu được cuốn Kinh Thánh, và ít ra đó là niềm ủi an trong cơn sầu khổ này.
Như vậy, tất cả những gì chúng con có đều bị cháy ra tro, và anh của con bỏ đi không để lại dấu vết. Về sau, con nghe nói rằng có lần uống rượu vào, anh khoe việc anh lấy tiền và đốt nhà.
Chúng con chỉ còn lại trần trụi và đổ nát, giống hệt người hành khất. Cố hết sức mình, chúng con mượn được ít tiền, dựng một túp lều nhỏ và sinh sống như người nhà quê không có chút đất đai nào. Vợ con vốn khéo tay. Cô ấy đan, xe chỉ và may. Người ta giao công việc cho cô ấy làm. Suốt ngày suốt đêm vợ con làm việc và chăm sóc con. Với cánh tay vô dụng của mình, con còn không thể làm nổi giày bằng vỏ cây. Vợ con đan và xe chỉ, con ngồi bên cạnh và đọc Kinh Thánh. Cô ấy lắng nghe, thỉnh thoảng bắt đầu khóc. Khi con hỏi vợ con rằng:
- Có chuyện gì mà em khóc? Ít ra là chúng ta còn sống, mình hãy cám tạ Thiên Chúa!
Vợ con trả lời là:
- Em khóc vì quá xúc động về những lời lẽ tuyệt đẹp trong Kinh Thánh.
Nhớ lại lời ông nội của con đã truyền cho chúng con, chúng con thường ăn chay. Mỗi sáng sớm, chúng con đọc Kinh Truyền Tin Thánh Nữ Maria và đêm về, mỗi người chúng con sấp mình một ngàn lần để tránh sa chước cám dỗ. Chúng con sống khá yên ổn suốt hai năm. Nhưng điều rất kinh ngạc là - dù không biết dâng lên bằng trái tim mình việc cầu nguyện trong lòng, và quả thật chưa bao giờ nghe nói tới việc đó - chúng con chỉ biết cầu nguyện bằng miệng bằng lưỡi của mình và sấp mình mà không nghĩ ngợi gì, giống như người làm xiếc nhào lộn; tuy vậy, bất chấp những cái đó, chúng con vẫn có lòng ước muốn cầu nguyện. Những lời kinh tuy dài và khi đọc lên chúng con chẳng hiểu gì cả nhưng chúng con cảm thấy hình như không có chút mệt mỏi nào. Điều đó rõ ràng là có thật, như một ông giáo từng có lần dạy con rằng việc cầu nguyện nằm sâu kín bên trong trái tim con người một cách bí nhiệm. Con người tự nó cũng không nhận ra điều đó, nhưng chính hoạt động bí nhiệm bên trong linh hồn của nó thúc giục nó cầu nguyện, tùy theo tầm mức hiểu biết và sức mạnh của mỗi người.
Sau hai năm sống cuộc sống được dẫn dắt như vậy, vợ con thình lình ngã bệnh sốt cao. Cô ấy chịu Mình Thánh Chúa và tới ngày bệnh thứ chín thì qua đời.
Con lúc này hoàn toàn bị bỏ lại một mình trên cõi đời. Con không thể làm được loại lao động nào cả, vậy mà vẫn phải sống, phải đi ăn mày, sống một cuộc sống ngược lại lương tâm mình. Bên cạnh đó, con cảm thấy đau khổ vô cùng vì mất đi người vợ, tới độ con chẳng tha thiết gì tới bản thân mình nữa. Hễ tình cờ đi vô túp lều nhỏ của hai đứa, mắt chợt nhìn thấy quần áo của vợ con hoặc khăn quàng của cô ấy là con bật khóc, đôi khi ngã đất xuống bất tỉnh.
Cảm thấy sống trong nhà mình thì không còn chịu đựng nổi đau thương, con bán túp lều được hai mươi đồng và đem quần áo của vợ chồng con cho người nghèo. Vì cánh tay bị tật, con được cấp giấy thông hành miễn mọi nhiệm vụ sưu dịch. Cầm cuốn Kinh thánh, con lên đường, không băn khoăn cũng chẳng nghĩ ngợi là mình sẽ đi đâu.
Nhưng sau một lúc, con bắt đầu suy nghĩ mình sẽ đi nơi nào đây, và tự nhủ với mình rằng:
- Trước hết, mình hãy đi Kiev. Mình sẽ kính viếng đền thánh của những vị đã làm vui lòng Thiên Chúa và cầu xin chư vị cầu bàu cho mình trong cơn khủng hoảng này.
Ngay khi quyết định như vậy, con bắt đầu cảm thấy khá hơn, và với niềm an ủi lớn lao, con lên đường đi Kiev.
Từ ngày đó, trong suốt mười ba năm nay, con đi lang thang nơi này nơi nọ. Con đã đi qua nhiều nhà thờ và nhiều tu viện, nhưng thời gian này, con càng ngày càng lang thang xa hơn qua nhiều sườn đồi và nhiều cánh đồng. Con không biết liệu Thiên Chúa có đoái thương để cho con đi tới Giêrusalem hay không. Nếu đó là thánh ý Ngài, thì khi thời điểm đến, nắm xương tội lỗi của con có thể được nghỉ an nơi thành thánh đó.
- Và hiện nay con bao nhiêu tuổi rồi?
- Thưa cha, con ba mươi ba.
- A, người anh em yêu quí, con đã với tới tuổi của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
|